Audio book Đường Xưa Mây Trắng- Thích Nhất Hạnh

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Duong-Xua-May-Trang-457.html

Tác giả:Thích Nhất Hạnh

NXB: Nhà Xuất Bản Thời Đại

Giới thiệu cuốn sách:

Đường Xưa Mây Trắng là cuốn sách kể chuyện đời đức Phật Thích Ca qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Đó là chú bé cúng dường cỏ bồ đề cho sa môn Tất Đạt Đa tĩnh tọa suốt 49 ngày trước khi thành đạo.

Quyển Một

 

01. Đi để mà đi

02. Nghệ thuật chăn trâu

03. Mớ cỏ Kusa.

04. Chim thiên nga trúng tên.

05. Bát sữa cứu mạng.

 

06. Bóng mát cây hồng táo.

07. Giải thưởng voi trắng

08. Chuỗi ngọc

09. Con đường tâm linh và con đường xã hội

10. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

 

11. Tiếng sáo canh khuya

12. Con ngựa Kanthaka

13. Đạo tràng đầu tiên

14. Vượt sông Hằng

15. Khổ hạnh lắm

 

16. Thì ra lệnh bà Yasodhara giả ngủ

17. Chiếc lá pippala

18. Sao mai đã mọc

19. Trái quít của chánh niệm

20. Nai ngọc

 

21. Hồ sen

22. Chuyển pháp luân kinh

23. Những giọt nước cam lộ

24. Hãy đi như những con người tự do

25. Đỉnh cao của nghệ thuật

 

26. Nước cũng đi lên như lửa

27. Vạn pháp đang bốc cháy

28. Rừng Kè

29. Muôn vật từ duyên mà sinh lại từ duyên mà diệt

 

Quyển Hai

 

30. Venuvana

31. Sang Xuân ta sẽ về

32. Ngón tay chỉ mặt trăng

33. Cái đẹp không tàn hoại

34. Mùa xuân đoàn tụ

35. Ra nhìn tia nắng sớm

 

36. Những bông sen duyên kiếp

37. Một niềm tin mới

38. Ôi ! Hạnh phúc

39. Ba lần thức dậy trời vẫn chưa sáng

40. Bao nhiêu tấc đất bấy nhiêu tấc vàng

 

41. Ai có thấy mẹ tôi ở đâu không ?

42. Không hiểu biết thì không thể yêu thương

43.Máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn

44. Tứ đại tan rã rồi tứ đại lại kết hợp

45. Cánh cửa phương tiện

 

46. Nắm lá Simsapa

47. Cứ theo Chánh pháp mà hành trì

48. Rơm phủ lên bùn

49. Con hãy học hạnh của đất

50. Một vóc cám rang

 

51. Kho tàng của cái thấy

52. Phước điền y

53. An trú trong hiện tại

54. Thản nhiên trước cuộc thịnh suy

55. Ánh mai vừa tỏ rạng

 

Quyển Ba

 

56. Trùng sinh ân nặng

57. Chiếc bè đưa người

58. Con gái đắt giá hơn con trai

59. Nhảy cao mấy cũng rơi vào lại trong lưới

60. Ngày nào tóc cũng ướt

 

61. Tiếng gầm sư tử lớn

62. Đừng vội tin cũng đừng vội bài bác

63. Đường về biển cả

64. Vòng sinh tử không có bắt đầu

65. Không có cũng không không

 

66. Bốn núi bao quanh

67. Nước biển chỉ có một vị mặn

68. Ba cánh cửa nhiệm mầu

69. Chim cút và chim ưng

70. Bụt từ đâu tới và sẽ đi về đâu

 

71. Nghệ thuật lên giây đàn

72. Chống đối im lặng

73. Những vắt cơm dấu trong mái tóc

74. Tiếng rú của những con voi chúa

75. Những giọt nước mắt vui sướng của Sudatta

 

76. Hoa trái của ngày hôm qua

77. Sinh tử là hoa đốm giữa hư không

78. Hai ngàn chiếc áo vàng trên núi Thứu

79. Nấm chiên đàn

80. Hãy tinh tiến lên để đạt giải thoát

81. Đường xưa mây trắng

 

Bản đối chiếu Pali, Phạn, Hán Việt

Audio book Tử Thư Tây Tạng- Đức Liên Hoa Sinh

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Tu-Thu-Tay-Tang-447.html

Giới thiệu cuốn sách:

Thật đáng buồn, là phần đông chúng ta chỉ bắt đầu thưởng thức được hương vị đời sống khi chúng ta sắp sửa chết.

Tử Thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Dead) hay nguyên tác Bardo Thodol Chenmo là một cuốn sách đặc biệt đề cập đến các cảnh giới bên kia cửa tử. Ngay từ khi được giáo sư W.Y.Evens Wentz phiên dịch ra Anh ngữ vào năm 1924, nó đã gây ra nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi.
Danh từ “Tử Thư” (Book of the Dead) thực ra dịch không được đúng vì giáo sư Evans Wentz đã căn cứ trên một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, cũng đề cập đến một cảnh giới bên kia cửa tử, gọi là Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead).
Danh từ “Tử Thư” khiến nhiều người hiểu lầm, cho rằng đó là sách dành cho người chết hoặc để dùng trong các nghi lễ chôn cất người chết. Thật ra nội dung cả hai cuốn sách nói trên rất phong phú, chứa đựng nhiều tinh hoa huyền môn, dùng cho người sống cũng như người chết.
Người Ai Cập chủ trương sống và chết là một nghệ thuật mà người ta có thể học hỏi. Tử Thư Ai Cập, nguyên tác Her Em Hru có thể dịch sát nghĩa là “Nghệ thuật bước vào một đời sống mới kể từ lúc này”, trong đó các danh sư Ai Cập đã giải thích những quy tắc để người sống cho ra sống và chết cho ra chết, với đúng ý nghĩa của nó. Người Ai Cập tin rằng vũ trụ có nhiều cõi giới mà cõi trần chỉ là một mà thôi.
Nếu biết nghệ thuật sống và chết, người ta có thể di chuyển luân hồi từ cõi này qua cõi khác như người đi du lịch. Có lẽ đó là lý do mà nhiều nhà nghiên cứu đã coi Tử Thử Ai Cập như tấm bản đồ chỉ dẫn về các cõi giới bên kia cửa tử. Tuy nhiên các danh sư Ai Cập không hề quan tâm đến việc giải thoát ra khỏi vòng luân hồi này.
Trong khi đó, người Tây Tạng ngoài việc nghiên cứu các cõi giới, lại đặc biệt chú trọng đến việc giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi nữa. Đó là căn bản khác biệt rõ rệt nhất giữa hai cuốn sách nói trên và đống thời cũng làm nổi bật nét độc đáo của cuốn Tử Thư Tây Tạng.
Trước khi đi xa hơn vào chi tiết của cuốn sách này, chúng ta hãy tìm hiểu danh xưng của nó. Nguyên tác Bardo Thodol Chenmo có tạm dịch là “Sự giải thoát khi được học hỏi (hay nghe nói) về mật pháp Bardo”. Nhiều người đã dịch danh từ Bardo là cõi chết, cõi Trung giới, hay cảnh giới của Thân Trung Ấm, nhưng thật ra nó còn có một ý nghĩa rộng hơn là “sự chuyển tiếp” (transition). Danh từ “chuyển tiếp” hàm ý một giai đoạn ở giữa sự di chuyển từ giai đoạn này qua một giai đoạn khác hay từ trạng thái này qua một trạng thái khác.
Tử Thư Tây Tạng là một cuốn sách thuộc về giáo lý mật truyền nên rất khó hiểu, khó giải thích, và đã gây nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi trong giới học giả. Dĩ nhiên người ta không thể hiểu nó nếu không nắm vững được căn bản của Mật Tông. Người ta cũng khó có thể áp dụng các phương pháp trong đó nếu không được sự chỉ dẫn khẩu truyền của các danh sư Tây Tạng chuyên tham cứu về pháp môn này. Trong loạt bài khảo luận ngắn này, người viết không có ý mong cầu có thể giải thích được sự vi diệu của cuốn sách trên, nhưng chỉ muốn trình bày một vài khía cạnh đặc biệt của cuốn sách dưới cái nhìn của của khoa học và Phật học.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Tử Thư Tây Tạng là sách hướng dẫn người ta sắp lìa đời hoặc người đã chết vì nội dung cuốn sách đề cập rất kỹ đến các quy tắc cúng lễ, cầu siêu hay hướng dẫn cho người đang hấp hối. Tuy nhiên, đức Đạt Lai Lạt Ma lại gọi nó là Sinh Thư (Book of the Living) thay vì Tử Thư. Ngài nhấn mạnh: “Đạo Phật là đạo dành cho người sống chứ không phải người chết”. Ngài đã giảng: “Trọn bộ Tử Thư có thể thâu gồm vào một ý chính như sau: “Người nào biết sống một cách tỉnh thức thì sẽ chết tỉnh thức, và một khi đã tỉnh thức thì họ có thể chuyển thần thức, tránh được sự lôi kéo của nghiệp và thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đa số con người vì bị vô minh che phủ nên không biết cách sống cho đúng với ý nghĩa của sự sống, thường thường nếu không hoài niệm về quá khứ thì họ cũng mơ tưởng về tương lai, họ luôn luôn ‘lo lắng để sống’ chứ không hề ý thức rõ rệt sự sống. Vì sống một cách u mê, không tỉnh thức như vậy nên khi chết thì họ cũng không thể làm chủ được hoàn cảnh khi ấy, dĩ nhiên họ sẽ hoàn toàn để nghiệp lực lôi kéo và trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi”.
Lời giải thích này là một chìa khóa quan trọng đã rọi một tia sáng cho những người muốn tìm hiểu cuốn Tử Thư Tây Tạng. Người ta có thể coi nó là một Sinh Thư, sách hướng dẫn cho người sống, khuyên họ phải sống làm sao để khi chết có thể tự chủ, tỉnh thức để thoát luân hồi, hoặc người ta cũng có thể coi nó là một Tử Thư, sách hướng dẫn cho người chết biết cách tìm đến những cõi giới tốt lành, tránh đọa lạc vào ba đường ác là Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sinh.
Theo cuốn Tử Thư, vòng luân hồi có thể tạm chia ra làm bốn phần hay bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn sống là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, nói giản dị thì đó là một kiếp người. Giai đoạn chết là khoảng thời gian từ khi rời bỏ thể xác cho đến khi bước sang Cõi sáng (Dharmata). Giai đoạn thứ ba là lúc sống trong Cõi sáng, một khoảng thời gian rất đặc biệt khi thần thức được khai mở để kinh nghiệm chân tâm. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn tái sinh, khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị để tái sinh cho đến khi sinh ra.
Các danh sư Tây Tạng tin rằng trong lúc chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, cơ hội để giải thoát hay để phá tung lưới sinh tử có thể thực hiện được. Đó chính là mật pháp của cuốn Tử Thư Tây Tạng hay sự giải thoát nhờ biết cách chuyển thần thức, không để bị nghiệp tiếp tục dẫn đi vào vòng sinh tử luân hồi. Trạng thái chuyển tiếp giữa hai giai đoạn là một cơ hội đặc biệt có thể được giải thích qua thí dụ sau: Thử tưởng tượng một người làm việc khó nhọc và xây dựng được một sự nghiệp lớn. Vì một biến cố chi đó mà chỉ trong giây phút bỗng nhiên anh mất hết tất cả: Nhà cửa, tài sản, vợ con, danh vọng, quyền thế. Hiển nhiên tâm hồn anh bị xúc động mạnh khiến anh chới với, hụt hẫng không biết phải làm gì. Ngay trong giây phút đó, tự nhiên anh bỗng cảm thấy như vừa trút bỏ được một gánh nặng, không phải khó nhọc, không phải lo lắng nữa. Cái cảm giác này chỉ tồn tại rất ngắn vì hiển nhiên bộ óc lý luận của anh sẽ làm việc ngay, nó sẽ thu xếp mọi sự để đi đến một kết luận về biến cố vừa xảy ra kia. Nó sẽ quy lỗi cho một nguyên nhân nào đó khiến anh cảm tức giận hay tuyệt vọng. Chính vì thói quen lý luận này mà anh bị lôi kéo vào một mê hồn trận khiến tâm hồn anh luôn luôn bị động, không còn tự chủ được nữa. Cái giây phút ngắn ngủi của sự tĩnh lặng thoảng đến trong lúc đầu, trước khi lý trí của anh hành động, chính là cơ hội ngàn vàng để anh có thể tránh được sự lôi kéo vào trạng thái bị động này. Cũng giống như giây phút “hốt nhiên chứng ngộ” của các vị thiền sư, đó là một khoảng trống mà một người biết sống trong tỉnh thức có thể sử dụng để kéo dài cái trạng thái tĩnh lặng đó, không để cho bộ óc lao xao đầy lý luận lôi kéo và chính đó là cơ hội mà sự giải thoát có thể xảy ra.
Giai đoạn chuyển tiếp giữa sự sống và sự chết cũng như thế, chỉ một hơi thở đầy tỉnh thức mà một người công phu tu tập có thể phá tung lưới sinh tử, thoát vòng kiềm tỏa của nghiệp lực.
Nghiệp lực là sức mạnh của các thói quen xuất phát từ thân, khẩu và ý. Chúng sinh trải qua bao kiếp luân hồi đã tạo biết bao nhiêu nghiệp lành cũng như dữ, dưới hình thức của chủng tử này sẽ phát động. Nghiệp có thể chia làm hai loại: Tích lũy nghiệp, là nghiệp chất chứa từ lâu, tùy theo nhân duyên dần dần phát động, và Cận tử nghiệp phát động ngay trước khi chết. Thí dụ một người làm nhiều việc lành đáng kể nhưng trước khi chết lại gây ra một nghiệp ác và nghiệp quả này phát động ngay (Cận tử nghiệp) nên thay vì được hưởng các điều lành, người đó lại bị đọa lạc vào ba đường ác. Dĩ nhiên những nghiệp lành kia không hề mất nhưng tiềm ẩn và sau khi trả dứt nghiệp ác, người nọ sẽ hưởng các điều lành theo đúng nguyên tắc của luật nhân quả. Vì không ai biết nghiệp quả nào sẽ tạo tác trong giờ phút lâm chung nên sự tỉnh thức và tự chủ trước khi chết là một yếu tố hết sức quan trọng. Cuốn Tử Thư đã ghi rõ: “Tâm trạng của người chết sẽ quyết định cảnh giới nào mà người đó sẽ đến”, do đó cuốn sách này đã dành hẳn ra một chương cho các nghi thức hướng dẫn người lúc hấp hối để họ có thể thoải mái, an lành khi bước vào thế giới bên kia.
Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng chuyên nghiên cứu về các cảnh giới bên kia cửa tử đã viết: “Không gì làm tôi ngạc nhiên bằng thái độ của người Âu Mỹ đối với sự chết. Hình như người ta coi đó là một sự kiện bất bình thường, một điều ghê tởm đáng sợ và đáng tránh. Tôi thấy hình như đa số mọi người đều qua đời tại những nơi chốn xa lạ như tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lão, rất íy ai được chết yên ổn tại nhà. Đã thế họ qua đời không người hướng dẫn, không ai cử hành một nghi thức nào cho đến khi người đó hoàn toàn chết hẳn. Lần đó tôi gặp một thiếu phụ đang hấp hối về chứng ung thư. Cả gia đình tề tựu an ủi và khuyên bà ta hãy cố gắng chống trả căn bệnh ngặt nghèo đó. Người chồng nói: ‘Đừng tuyệt vọng. Đừng buông xuôi tay. Hãy tiếp tục phấn đấu’. Các con bà cũng khuyên: ‘Hãy vui vẻ, lạc quan’. Dường như họ nghĩ rằng việc phấn đấu và lạc quan đó sẽ làm cho căn bệnh ngặt nghèo kia phải chấm dứt. Người đàn bà đã mệt lắm rồi, mạch bà đập yếu ớt. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận bà chỉ có thể sống trong vòng vài giờ nữa thôi. Cả gia đình bèn rút lui để lo việc tống táng, mặc cho thiếu phụ chịu đựng giờ phút ghê gớm, đầy sợ hãi lúc lâm chung đó là một mình, không ai giải thích cho bà biết cách chấp nhận sự chết, không ai chia sẻ giờ phút kinh khủng đó với bà, không ai hướng dẫn cho bà, mà mặc bà chịu đựng nỗi đau đớn vô vàn đó một mình. Hiển nhiên truớc hoàn cảnh như thế, làm sao bà có thể ung dung mà bước qua cõi giới bên kia được? Tại sao một quốc gia đã phóng được phi thuyền lên tận không gian lại không có đủ những tiện nghi tối thiểu để giúp người chết thoải mái về phương diện tinh thần? Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là sự xa xỉ quá độ trong các nghi thức tống táng. Người Âu Mỹ có thể tổ chức những đám tang rất tốn kém với những cỗ quan tài trị giá bằng cả một gia tài, những vòng hoa khổng lồ, những ban nhạc được thuê bao đặc biệt, nhưng hình như không ai có thời giờ chân thành cầu nguyện cho người quá cố cả. Mặc dầu vẫn có những nghi lễ tôn giáo nhưng gia quyến quá bận rộn đón tiếp những người đến chia buồn nên đã quên rằng người cần được giúp đỡ là người vừa nằm xuống chứ đâu phải là những người còn sống. Phải chăng họ ỷ lại vào các giáo sĩ chuyên nghiệp cầu nguyện là đủ rồi? Có lẽ vì việc không chấp nhận sự chết, sợ hãi sự chết, ghê tởm sự chết mà họ đã hành động như vậy chăng? Nếu họ hiểu rằng chết là một sự kiện tự nhiên, một diễn tiến bình thường như người đi du lịch nơi xa, hay được học hỏi về cảnh giới bên kia cửa tử thì có thể họ đã hành động khác”.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, một nhà khảo cứu nổi tiếng nhất hiện nay về sự chết, cũng đã viết: “Một bác sĩ trẻ tuổi mới tốt nghiệp đến gặp tôi. Anh vừa khóc vừa nói: ‘Ngày đầu nhận việc tại một bệnh viện, tôi gặp một bệnh nhân già yếu đang hấp hối, thân quyến của ông ở xa chưa về kịp nên ông nằm một mình với nỗi lo sợ hằn trên khuôn mặt đầy vết thời gian. Ông nắm chặt tay tôi như không muốn rời: ‘Này bác sĩ, liệu Thượng Đế có cứu tôi không? Tôi là kẻ có tội, tôi đã làm nhiều điều tội lỗi, liệu tôi có xuống địa ngục không?’ Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Tôi là một bác sĩ y khoa, không phải một giáo sĩ. Tôi không hề được huấn luyện để đối phó với trường hợp như thế. Tôi cố gắng gỡ tay ông lão ra nhưng ông bám chặt lấy tay tôi không rời. Hai người y tá phải bước đến dùng sức mạnh mới gỡ được bàn tay của ông lão ra. Chúng tôi quyết định đưa ông lão vào một căn phòng tối để ông có thể chết một cách yên tĩnh. Ông nằm đó rên rỉ về những cảnh tượng địa ngục mà ông nghĩ sẽ phải đến. Chúng tôi cho gọi vị giáo sĩ trực trong bệnh viện đến giúp ông ta, nhưng lúc đó có quá nhiều người chết, vị này bận rộn không thể đến được. Ông lão nằm đó rên rỉ suốt mấy ngày liền, không sao chết được. Vị bác sĩ trẻ tuổi đặt câu hỏi: ‘Thưa bà, trong trường hợp như vậy tôi phải làm gì đây?” Bác sĩ Kubler Ross nhấn mạnh: “Điều đáng nói là đa số chúng ta, những người chuyên môn trong lãnh vực y khoa, không hề có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi kể trên. Phải chăng chúng ta đã trở nên mất nhạy cảm, lạnh lùng sắt đá trước sự chết? Phải chăng đã chứng kiến quá nhiều cảnh tượng này nên chúng ta không buồn lưu tâm đến vấn đề đó nữa? Phải chăng sau khi đã làm tròn bổn phận một y sĩ là cố gắng cứu chữa bệnh nhân nhưng biết không thể làm gì hơn, chúng ta đã bó tay, mặc cho số mệnh mà quên rằng điều bệnh nhân cần là sự giúp đỡ của chúng ta trên phương diện tinh thần chứ không phải vật chất nữa?”
Thế nào là sự giúp đỡ trên phương diện tinh thần? Theo các danh sư Tây Tạng, điều quý báu nhất một người có thể giúp cho người sắp từ trần là làm sao để họ không sợ hãi (vô uý thí). Trước khi có thể giúp cho người khác không sợ hãi thì chính người cho phải bình tỉnh, thoải mái và không sợ hãi đã. Điều này không đòi hỏi người cho phải làm những điều gì khác thường nhưng ít ra người đó phải có một lòng yêu thươnng chân thành và sự hiểu biết sáng suốt. Vì người sắp chết thường lo lắng, hốt hoảng, có thể nói năng hàm hồ, không sáng suốt do đó người đến an ủi phải biết cách lắng nghe, giữ yên lặng để cho người kia thổ lộ tâm can. Thông thường sau khi được nói một cách thoải mái, người sắp chết dần dần bình tĩnh và bày tỏ nỗi lo sợ, lòng nghi ngờ, các thắc mắt hay tâm trạng của họ đối với đời sống. Cuốn Tử Thư ghi nhận: “Đây là lúc các chủng tử chất chứa trong tàng thức bắt đầu phát động, các yếu tố của Cận tử nghiệp bắt đầu hiện hành, giống như một ngọn đ èn sắp cạn dầu chỉ còn bùng lên một lúc trước khi tắt ngún…” Các danh sư Tây Tạng khuyên: “Hãy cố gắng giữ yên lặng, lắng nghe người sắp chết tâm sự, hãy mở rộng tâm hồn, tránh không phán đoán hay phản ứng vì không gì tai hại hơn sự phán đoán trong lúc này. Hãy đem hết tình thương truyền trao cho họ, khuyến khích họ giãi bày tâm sự và đừng quan trọng hóa những điều họ nói đó. Đôi khi vì những chủng tử xấu phát động mà người đó có thể nổi sân si, la hét mắn chửi, kêu gào vào những lúc bất ngờ nhất. Hãy tự chủ và biết rằng một người đang mất bình tĩnh, đang chịu đựng những nghiệp quả bất ngờ, không ý thức rõ rệt vì về hoàn cảnh lúc đó thật không đáng trách. Nhiều người vì quá thương xót đã lên tiếng khuyên giải nhưng sự kiện này có thể làm người sắp chết thêm giận dữ mà thôi. Sự yên lặng, chăm chú lắng nghe và không phản ứng là món quà quý giá nhất, vì hơn bao giờ hết, người sắp chết đang cần sự thông cảm và thương yêu. Đừng nghĩ rằng mình có thể cứu được người kia hay có thể làm được điều gì tốt hơn mà hãy giữ yên lặng vì chúng ta không biết rõ được tâm thức của người sắp chết khi đó ra sao”. Để giữ bình tĩnh và lắng nghe, các vị thầy Tây Tạng đã chỉ dạy một phương pháp quán tưởng như sau: “Hãy giữ vững hơi thở cho thật đều, đừng xem người sắp chết như một người thân hay một người đang cần giúp đỡ mà hãy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hãy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành có hào quang sáng chói, mọi sự đau khổ, kêu la than khóc của họ chỉ là một đám mây mù và trước sau sẽ tan ra khi ánh sáng của Phật tánh chiếu sáng. Nhờ phép quán đó mà người giúp đỡ sẽ khơi dậy mầm mống thương yêu nơi mình, bình tĩnh và hoàn tất việc yên lặng lắng nghe một cách hữu hiệu hơn”.
Sự yên lặng, lắng nghe là bước đầu tiên trong việc giúp đỡ người sắp qua đời, nhưng nếu đã thành công trên phương diện này, người ta có thể đi vào bước thứ hai là việc làm khơi dậy các chủng tử thiện. Cuốn Tử Thư ghi nhận: “Trong tàng thức con người có đầy đủ mọi hạt giống thiện ác, xấu tốt và nếu biết khéo léo khơi dậy các chủng tử thiện, sẽ giúp cho người sắp chết tránh được các Cận tử nghiệp xấu xa”. Khi người sắp chết thố lộ tâm sự, đừng chú ý tới những điều tội lỗi, xấu xa người đó đã làm mà chỉ nên đặc biệt chú trọng đến những điều người đó hãnh diện, thích thú, tự hào. Lúc lâm chung, ai cũng cảm thấy sợ hãi, lo sợ, hối hận hay tuyệt vọng, nhưng đôi khi họ cũng vô tình đề cập đến một điều gì tốt đẹp mà họ đã làm. Hãy khuyến khích hay nhắc nhở người đó khai triển đề tài này để cho thần thức của họ bớt mặc cảm sợ hãi, để họ thấy rằng cuộc đời của họ cũng có những lúc tốt đẹp, tươi sáng đem lại cho họ một hy vọng. Nếu họ chuyển qua những viêc vừa ý hơn điều bất như ý thì các chủng tử xấu xa, tội lỗi không có dịp phát động, nhường chỗ cho các chủng tử thiện và điều này có thể đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ.
Trong khóa huấn luyện các bác sĩ y khoa, bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đã dạy: “Thật không có gì tốt đẹp hơn là làm cho người sắp chết trút được nỗi lo sợ, đem lại cho họ một niềm hy vọng. Nếu một người đặt câu hỏi: ‘Tôi là kẻ tội lỗi, liệu Thượng Đế có tha thứ cho tôi hay không?’ thì các bạn phải biết trả lời: ‘Thượng Đế chính là tình thương. Trong tình thương luôn luôn có sự tha thứ. Chúng ta đều là con của ngài thì lẽ nào ngài lại có thể không tha thứ cho con của ngài được?’ Hiển nhiên không phải người nào cũng có đức tin tôn giáo, nhiều người nghĩ rằng nếu đem đức tin đến cho người sắp chết thì họ sẽ được thoải mái hơn. Bác sĩ Rubler Ross khuyên: “Chúng ta cần thận trọng trong việc này. Nếu người đó yêu cầu, dĩ nhiên chúng ta nên làm, còn nếu không, đừng nên quan trọng hóa nó. Biết đâu trong đời người đó đã có ác cảm với một tôn giáo nào đó và việc khơi dậy nhữnh điều này có thể mang lại những hậu quả tai hại bất ngờ”.
Phần lớn mọi người đều sợ chết vì không ai biết chết sẽ đưa họ đến đâu! Cái quan niệm chết là hết, là mất tất cả, nhà cửa, tài sản, vợ con, thân quyến, và ngay cả chính mình nữa là một điều hết sức ghê gớm không mấy ai muốn nghĩ đến. Đó là chưa kể sự sợ hãi về một nơi gọi là “địa ngục” nên hiển nhiên chẳng ai muốn giáp mặt với sự chết hay có thể chấp nhận nó dễ dàng.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đã phân tích tâm trạng con người khi phải giáp mặt với sự kiện này qua năm trạng thái tâm lý như sau: Phủ nhận, giận dữ, lý luận, buồn nản, và chấp nhận. Hiển nhiên thoạt biết mình bị bệnh nặng có thể chết, trạng thái tâm lý tự nhiên của con người là phủ nhận nó. Nhiều bệnh nhân đã từ chối không chịu uống thuốc hay chấp nhận việc chữa trị. Họ tự đánh lừa mình rằng họ không làm sao hết, họ đổ lỗi cho bác sĩ chẩn bệnh sai, rồi tìm một bác sĩ nào đó có thể nói khác hơn. Giai đoạn này thường kéo dài rất lâu, gây khó khăn cho việc chữa trị. Nhiều người đã không vượt qua được trạng thái này và đến khi chết vẫn tin rằng mình không hề làm sao cả. Nếu vượt qua giai đoạn phủ nhận này thì đa số thường trở nên giận dữ, than thân trách phận, tìm cách trách móc, đổ lỗi cho những người chung quanh. Họ dễ nổi giận vô cớ, hay gây gổ và có những lời nói hay cử chỉ nóng giận bất thường. Có người đến khi trút hơi thở cuối cùng vẫn còn chỉ trích, trách móc người khác. Vượt được giai đoạn này, phần lớn người bệnh rơi vào trạng thái tâm lý phức tạp với những lập luận, tin tưởng lạ thường như có một “phép lạ” xảy ra, một phát minh mới mẻ được khám phá, một loại thần dược có thể chữa lành mọi thứ bệnh, rồi bám lấy hy vọng viển vông, hão huyền này. Đây là lúc các bệnh nhân đi tìm những phương pháp chữa bệnh khác với lối chữa trị thông thường, đi tìm an ủi qua những điều huyền hoặc hay có những lập luận rất lạ lùng về tình trạng của họ. Nếu qua được giai đoạn này, đa số bệnh nhân sẽ cảm thấy tuyệt vọng, lúc nào cũng buồn chán, không biết làm gì nữa. Đây là lúc họ buông xuôi, mặc cho số phận an bài. Họ thường tủi thân, khóc lóc và hơi một chút bất như ý là động lòng, cho rằng không ai thông cảm hay hiểu họ hết. Cuối cùng là giai đoạn chấp nhận. Đây là trạng thái quan trọng có thể giúp người sắp chết được thảnh thơi, ung dung tự tại bước qua thế giới bên kia. Nếu biết rõ người sắp chết đang ở trong trạng thái tâm lý nào, người ta có thể giải thích cho họ hiểu để giúp họ vượt qua các khó khăn trở ngại và chấp nhận sự chết một cách dễ dàng hơn.
Bác sĩ Ross kết luận: “Người sắp chết không ao ước gì hơn là sự cảm thông và lòng thương yêu của những người chung quanh. Chúng ta không cần phải khuyên giải hay nói với họ những điều cao siêu to lớn mà hãy tự nhiên thành thật và biết chia sẻ những giây phút cuối cùng với họ là đủ”.
Theo cuốn Tử Thư, giây phút lâm chung hết sức quan trọng, có thể quyết định số phận và tương lai của người chết. Vào lúc đó, tất cả mọi chủng tử của nghiệp lực chất chứa trong tàng thức đều sẵn sàng phát động. Nếu ra đi với một tâm trạng an lành thoải mái, người quá cố sẽ dễ siêu thoát và tránh được ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), và ngược lại, bất cứ một biến cố gì xảy ra trong lúc đó khiến họ xúc động, phát động các tư tưởng quyến luyến, giận hờn thì hậu quả thật không biết đâu mà lường.
Cuốn Tử Thư ghi rõ: “Tâm trạng của con người lúc chết sẽ quyết định nơi chốn hay cảnh giới mà họ sẽ đến”. Đó là một lý do người Tây Tạng chuẩn bị rất kỷ cho lúc lâm chung trong khi người Âu Mỹ, vì thiếu hiểu biết, đã hết sức bất cẩn vào những giờ phút quan trọng nhất. Đa số người hấp hối đều được đưa vào bệnh viện. Người ta cố gắng dùng những dụng cụ y khoa, những liều thuốc kích thích thật mạnh như một giải pháp cuối cùng để kéo dài thêm sự sống thay vì chấp nhận rằng đã đến lúc phải để người đó ra đi một cách an lành, thoải mái. Bác sĩ Melvin ghi nhận: “Người ta đã lạm dụng khoa học và kỷ thuật một cách vô ý thức, dường như việc kéo dài đời sống thêm dài giờ, vài phút là một điều mà người y sĩ phải thực hiện cho kỳ được. Tôi thấy người ta sử dụng các dụng cụ làm hồi tim bằng điện, các liều thuốc kích thích cực mạnh cho những người già yếu không thể kéo dài đời sống thêm bao lâu nữa. Dường như người y sĩ quan niệm rằng còn nước còn tát, dù thâm tâm họ biết rằng bệnh nhân đó khó sống quá vài giờ nữa. Sự gây bạo động trên thân thể người già bằng các dụng cụ y khoa, các thuốc men hóa học dĩ nhiên gây xáo trộn cho tâm lý người chết và tôi không hiểu tâm trạng của người đó lúc từ trần sẽ ra sao! Chắc chắn một người bị điện giật lung tung, bị dao kéo mổ khắp mình, bị chích đủ các loại thuốc không thể nào thoải mái hay bình tĩnh mà ra đi cho được”. Linh mục Thomas Merton cũng cảnh cáo: “Phần lớc các quốc gia tân tiến đã bỏ nhiều tiền bạc và công sức để tìm các phương pháp kéo dài sự sống, dù chỉ trong vài giờ, vài ngày nhưng không hề chú ý đến việc giáo dục con người về ý nghĩa của đời sống hay giúp họ cách giáp mặt sự chết, điều mà không ai có thể tránh được. Phải chăng nền văn minh kỹ thuật càng tân tiến, người ta càng mất hết nhân tính?” Sự tiến bộ của khoa học đã tạo ra một vấn đề hết sức nan giải, đó là sự kéo dài đời sống qua các máy móc nhân tạo (Life support system). Liệu chúng ta có muốn cho người thân tiếp tục sống trong trạng thái vô tri, vô giác bởi các máy móc đó không? Ai có thẩm quyền rút những máy móc này ra để cho người chết có thể ra đi một cách thoải mái? Đây là một đề tài đang được bàn cãi sôi nổi nhưng chưa đi đến một kết luận nào. Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy theo dõi diễn tiến của sự chết.
Theo cuốn Tử Thư, tùy theo nghiệp quả (karma) mà đời sống mỗi người có một số phận hay thời gian nhất định. Sự chết xảy ra khi nghiệp quả đã trả xong, các nhân duyên đã hội đủ và đời sống chấm dứt như ngọn đ èn hết dầu phải tắt. Tuy thế, thời gian của kiếp sống không hoàn toàn cố định mà có thể thay đổi, hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn, tùy theo nhân duyên và thái độ của con người đối với cuộc sống. Một người biết thực hành các phương pháp thiền định, dưỡng sinh hay làm việc phúc đức có thể kéo dài thêm tuổi thơ, trái lại, một người không biết lo lắng cho thân và tâm, hay làm các điều ác thì có thể chết trước khi phận số đến. Người Tây Tạnh tin rằng việc không ăn thịt cá, không sát sinh có thể kéo dài thêm đời sống, cứ bảy năm ăn chay có thể kéo dài tuổi thọ thêm một năm, hay việc phóng sinh chim cá có thể giúp người ta thoát khỏi các căn bệnh hiểm nghèo. Đây là một tin tưởng dựa trên luật nhân quả, giết hại sinh vật thì đời sống mình bị ngắn đi và phóng sinh hay giúp đỡ các sinh vật khác thì đời sống có thể tăng thêm.
Hiển nhiên đã sinh ra thì ai cũng phải chết, nhưng thái độ việc sinh ra hay lúc chết đi phản ảnh rõ rệt sự khác biệt giữa phong tục Tây Tạng và các quốc gia Tây phương. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng đã viết: “Trong khi người âu Mỹ chú trọng đến ngày sinh thì phong tục Tây Tạng lại chú trọng đến ngày chết. Người Âu Mỹ thích nói đến lúc sinh đứa bé khỏe mạnh ra sao, cân nặng bao nhiêu ký, giống cha hay giống mẹ và ăn mừng ngày sinh nhật. Trong khi đó, người Tây Tạng lại nói đến việc tổ tiên của mình đã chết như thế nào và kỷ niệm ngày giỗ rất trọng thể vì giá trị của một người không được đánh giá bằng danh vọng hay tài sản nhưng bằng đời sống nội tâm. Một cái chết phi thường hẳn biểu lộ một đời sống phong phú về nội tâm, và một người biết trước giờ chết, chuẩn bị dặn dò con cháu sẵn sàng, ngồi xếp bằng đọc kinh rồi thản nhiên trút hơi thở cuối cùng là một cái chết mà người Tây Tạng nào cũng muốn. Đôi khi sự ham muốn này đã tạo ra những sự kiện đáng tiếc như sau: Có một vị Lạc ma nổi tiếng có rất đông đệ tử. Không hiểu ông nghĩ sao mà đoán trước được giờ chết. Ông công bố tin này cho học trò và chuẩn bị một cái chết rất thịnh soạn. Trong nhiều tuần lễ, đệ tử khắp nơi kéo về đây nghe dặn dò và chuẩn bị ăn mừng ngày thầy ra đi. Vị này ngồi bằng nhập thiền, học trò quây quần chung quanh chờ đợi nhưng mấy ngày trôi qua mà vị thầy vẫn không chết. Sau đó ngồi lâu đói bụng, ông này bèn gọi học trò mang cơm ra cho thầy ăn. Học trò thất vọng rủ nhau bỏ đi hết vì nghĩ rằng vị thầy thiếu kinh nghiệm tâm linh. Buổi lễ lonh trọng đó đã biến thành một vở bi hài kịch”.
Đối với các vị công phu tu hành thì thái độ của họ khác hẳn. Bác sĩ Runolfo Sanchez Đã viết về cái chết của một Hòa thượng Gyawang Karmapa tại một bệnh viện Hoa kỳ vào năm 1891 như sau: “Hòa thượng là một người trầm tỉnh ít nói nhưng trên môi luôn luôn mỉm cười. Khi chúng tôi chẩn bệnh và nói rằng ngài khó qua khỏi đêm đó thì ngài lắc đầu vá nói rằng chưa đến lúc ngài ra đi. Mặc dù tất cả các triệu chứng cho thấy căn bệnh đã đến lúc ngặt nghèo, khó ai có thể kéo dài sự sống thêm được nhưng Hòa thượng vẫn lạc quan, và sau cùng chúng tôi thấy rằng ngài luôn luôn có lý. Cứ thế từ ngày này qua ngày nọ, mặc dù bệnh tình không thuyên giảm nhưng Hòa thượng cho biết chưa đến lúc ngài ra đi, và sau nhiều lần tiên đoán không đúng, chúng tôi đ ành giữ thái độ im lặng. Chúng tôi biết căn bệnh này gây đau đớn cho bệnh nhân rất nhiều nên muốn dùng thuốc mê nhưng ngài nhất định không chịu. Một hôm ngài cho biết đã đến lúc ra đi và yêu cầu tôi gọi nhân viên trong bệnh viện đến để ngài cám ơn họ. Nhìn ngài vui vẻ nói chuyện với mọi người, không ai nghĩ rằng chỉ trong giây phút sau ngài ngồi xếp bằng và trút hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau khi ngài qua đời, ngực ngài vẫn ấm và thân thể của ngài không có một dấu vết hư hoại gì. Đây là một điều mà chúng tôi không thể giải thích”.
Theo cuốn Tử Thư, diễn tiến của sự chết có thể tạm chia ra làm hai giai đoạn: Giai đoạn tan rã của các phần tử vật chất và giai đoạn tan rã của các yếu tố tinh thần. Người Tây Tạng tinh rằng phần vật chất của con người được cấu tạo bởi Tứ Đại hay các yếu tố như Đất, Nước, Gió, Lửa. Khi các yếu tố này tan rã thì con người không thể sống được. Nhờ biết quan sát khí sắc hay khả năng hoạt động của các giác quan thay đổi như thế nào mà một vị thầy Tây Tạng có thể hướng dẫn được cho người chết. Sự chết xảy ra khi các phần tử vật chất khởi sự tan rẽ, bắt đầu bằng những giác quan. Người sắp chết có thể vẫn nghe được tiếng người nói nhưng không còn hiểu được ý nghĩa câu nói đó vì thính giác đã ngưng hoạt động. Họ không thể nhìn rõ các hình ảnh chung quanh, tất cả từ từ mờ nhạt không còn rõ rệt vì thị giác đã bắt đầu ngưng hoạt động. Cũng như thế, các giác quan như khứu giác, vị giác, xúc giác cũng ngưng hoạt động khiến người đó bước vào trạng thái mê man. Sau đó yếu tố Đất khởi sự tan ra, các bắp thịt trở nên rã rời, không thể chống đỡ được toàn thân, người hấp hối có cảm tưởng như mình đang bị một ngọn núi đ è nặng lên toàn thân. Khi yếu tố Đất tan rã xong thì yếu tố nước khởi sự tan ra, các chất lỏng trong cơ thể không còn vận hành bình thường được nữa, nước mắt nước mũi tự nhiên trào ra, nhiệt độ trong người thay đổi nóng lạnh bất thường. Sau đó yếu tố Lữa bắt đầu tan rã, người chết tự nhiên thấy khát nước, chân tay trở nên lạnh ngắt và sau đó họ không còn tỉnh táo nữa. Khi yếu tố lữa tan rã hết thì yếu tố Gió bắt đầu tan rã, hơi thở người chết trở nên yếu dần và cuối cùng dứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, không còn biết gì nữa. Đối với y khoa Tây phương thì tim ngừng đập, óc ngưng hoạt động là lúc người đó coi như đã chết, nhưng theo cuốn Tử Thư thì giai đoạn tan rã của các phần tử vật chất này mới chỉ là bắt đầu vì giai đoạn thứ hai, sự tan rã của các yếu tố tinh thần có hoàn tất thì người đó mới có thể coi là thực sự đã chết.
Vì yếu tố Gió hay hơi thở là yêu cầu tâm thức nối liền tâm và thân nên khi yếu tố này tan rã, nó sẽ ảnh hưởng vào các trạng thái tâm thức bên trong và sự tan rã của các yếu tố tinh thần bắt đầu xảy ra. Các tinh lực của con người khi đó từ từ rút theo các đường kinh mạch để hội tụ chung quanh trái tim, do đó dù đã chết, thân thể đã lạnh nhưng người ta thấy phần ngực người chết vẫn còn hơi nóng. Các yếu tố thuộc về lý trí nằm trên óc được di chuyển đến phần ngực, các yếu tố thuộc về tình cảm nằm ở dưới bụng cũng di chuyển lên phần ngực và khi hai yếu tố này gặp nhau ở kinh mạch nằm cạnh trái tim, một sự thay đổi lớn bắt đầu xảy ra. Các phần tử căn bản của bản ngã bắt đầu tan rã, khởi đầu bằng sự tan rã của ba yếu tố chính hay tam độc (Tham, Sân, Si) và khi ba yếu tố này ngưng hoạt động thì thần thức của con người trở nên minh mẫn hơn, họ sẽ ý thức mọi sự một cách rõ rệt vì nói theo cuốn Tử Thư “khi các yếu tố thuộc về bản ngã tan rã, khi không còn bị mây mù của vô minh chi phối nữa thì chân tâm bắt đầu hiển hiện”. Đây là một giai đoạn hết sức quan trọng vì ý thức được chân tâm hay Phật tánh chính là cơ hội để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đối với người không tập luyện, không ý thức thì giai đoạn này chỉ là một tia chớp lóe sáng lên rồi tắt ngúm, nhưng với người thực hành thiền định sâu xa thì đây là cơ hội quý báu nhất vì họ có thể chuyển thần thức, trụ vào trạng thái này để giải thoát. Đó cũng là lý do đa số các danh sư Tây Tạng đều nhập thiền vào giây phút lâm chung. Họ hiểu biết rất rõ diễn tiến của sự chết và nhờ thâm cứu cuốn Tử Thư, như đã có sẵn một tấm bản đồ trong tay, họ biết cách tập trung ý chí vào các câu thần chú, các biểu tượng Mandala, các hình ảnh ghi giữ trong tâm. Mỗi khi một yếu tố tan rã, họ chuyển thần thức để tập trung tư tưởng vào một bài chú đặc biệt, một hình ảnh nhất định để lúc nào họ cũng ý thức được từng giây, từng phút của các diễn tiến xảy ra cho đến khi bản ngã tan hết, chân tâm tỏ rạng thì họ có thể tập trung mọi năng lực để hòa nhập vào cái trạng thái uyên nguyên bất động này.
Điều này thật ra cũng không khác với lời chỉ dẫn trong kinh A Di Đà vì một người chân thành cầu nguyện, vào phút lâm chung nếu niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn thì họ có thể chuyển thần thức để bước vào cảnh giới Tịnh Độ.
Cuốn Tử Thư đã nói rất rõ về giai đoạn này như sau: “Chân như bản thể của mọi sự vật đều mở rộng ra, sáng chói như một bầu trời không một gợn mây, không gian trong suốt như pha lê và vầng rạng đông của chân tâm bắt đầu sáng tỏ”. Danh từ “Sáng tỏ” (The dawn of luminosity) đã bị nhiều người hiểu lầm như một thứ ánh sáng nào đó. Theo đại sư Chogyam Trungpa thì khi chân tâm hiển hiện, tất cả mọi sự đều trở nên rõ ràng, không còn một chút tăm tối nào. Danh từ “Sáng tỏ” ở đây chỉ có ý nghĩa trừu tượng khác với tăm tối hay vô minh chứ không có nghĩa là người đó thấy được một thứ ánh sáng sáng chói như nhiều người lầm tưởng. Có người nói rằng đây là giai đoạn giác ngộ (Enlightenment) nhưng đại sư Chogyam Trungpa không đồng ý vì giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân, thấy được chân tâm chưa có nghĩa là giác ngộ mà còn phải hòa nhập và sống trọn vẹn trong đó nữa. Ông viết: “Con người trải qua vô thượng kiếp sống, đã chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, đã thấy được chân tâm bao nhiêu lần, nhưng đã mấy ai biết nắm lấy cơ hội để giải thoát này? Giáo pháp của đức Thế Tôn đã được giảng dạy từ bao ngàn năm nay, người có duyên được nghe, được học cũng nhiều nhưng đã mấy người biết áp dụng nó để phá tan núi sinh tử? Phải chăng tai tuy nghe, mắt tuy thấy nhưng vì không tỉnh thức, bị nghiệp lực chi phối nên họ không thể làm gì hơn là tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi”.
Dù có ý thức được chân tâm nhưng sự an trú vào đó lâu nay mau hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng hay công phu của người đó. Có người kinh nghiệm được trạng thái này trong vòng vài giờ, vài ngày, vài tháng hay vài năm. Hiển nhiên nếu có thể an trú mãi mãi thì họ hoàn toàn giải thoát rồi, nhưng không mầy ai được như vậy. Dù chưa hoàn toàn nhưng kinh nghiệm được chân tâm là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng quý báu, sau đó họ có thể chuyển thần thức để tái sinh vào những nơi chốn mà họ chọn lựa, đó là trường hợp các vị hóa thân. Đối với những người bình thường, khi yếu tố tinh thần tan rã hết thì họ sẽ tiếp đi trong một thời gian dài khoảng ba ngày và lúc đó các thói quen được lưu trữ trong tàng thức bắt đầu thu xếp để chuẩn bị cho giai đoạn sau hay giai đoạn sống trong Cõi sáng (the luminous Bardo of Dharmata).
Theo cuốn Tử Thư, giai đoạn sống trong Cõi sáng (Dharmata) là lúc tâm thức con người biến hiện rất tế nhị vì các yếu tố vật chất tan rã hết và chân tâm hiển hiện. Tiến sĩ David Bohn viết: “Khi vật chất tan rã thì nó chuyển qua hình thức nắng lượng vì vật chất chính là các năng lượng đã đông đặc lại”. Khi vật chất khởi sự tan rã, thần thức dường như bị tê liệt khiến con người có cảm tưởng như đang ở trong một căn hầm tăm tối, không ý thức được điều gì nhưng khi bước sang giai đoạn Cõi sáng thì họ thấy mình lơ lửng trong một biển ánh sáng đặc biệt với các màu sáng huyền ảo. Đây là điều mà cuốn Tử Thư gọi là “lúc đêm chuyển qua ngày” hoăc “khi mặt trời chiếu sáng thì bóng tối tan dần và sự thật phô bày rõ rệt”. Mặt dù cuốn sách này hẳn một phần quan trọng để nói về Cõi sáng (the Bardo of Dharmata) nhưng đây là một phần rất khó hiểu, khó diễn tả nên thường được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ chính vì thế, phần này đã tạo nhiều rắc rối, mâu thuẫn cho những người muốn tìm hiểu về nó, nhất là giới học giả Tây phương thường hay suy luận, phân tích một cách khoa học. Đa số những người này vì thiếu kinh nghiệm tâm linh nên đã giải thích cõi này một cách sai lạc như một “kinh nghiệm về ảo giác” và có nhiều ngộ nhận đáng tiết.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: “Chân lý có thể được diễn tả một cách tuyệt đối cũng như tương đối. Nếu một người có trình độ hiểu biết thâm sâu thì họ có thể kinh nghiệm ngay được sự tuyệt đối nhưng vì số người này rất ít, do đó các danh sư đã phải sử dụng các tỉ dụ các lối nói trừu tượng bóng bẩy, các hình ảnh biểu tượng, các thí dụ giản dị để diễn tả nhưng cũng vì thế mà nó chỉ có tính cách tương đối thôi. Sử dụng những gì tương đối để diễn tả điều tuyệt đối là việc rất khó nên người đọc cần hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn, những phần nhỏ rời rạc được góp nhặt lại để diễn tả những điều không thể diễn tả mà thôi. Người ta phải biết phân biệt, đừng lầm ngón chỉ mặt trăng với mặt trăng, đừng lầm những tỉ dụ bóng bẩy như những sự thật tuyệt đối”.
Có nhiều người cho rằng đời sống ở cõi này rất thoải mái, sung sướng với những cảnh tương tự như cảnh giới ở cõi trần như người khác lại cho rằng khi bản ngã đã tan hết thì không còn chủ thể hay đối tượng nữa, tất cả đều là cái vô cùng, cái đồng nhất, vô phân biệt, mà đã vô phân biệt thì đâu còn có mình, có người nữa. Đại sư Chogyam Trungpa viết: “Đây không phải là sự cảm nhận hay kinh nghiệm, vì cảm nhận hay kinh nghiệm còn có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, đây chính là cái điều mà danh từ Phật giáo gọi là ‘Tâm vô phân biệt’ hay ‘Bất nhị”.
Khi bước qua Cõi Sáng, giai đoạn đầu tiên là hồi quang phản chiếu hay là sự quan sát lại tất cả những diễn tiến đã xảy ra trong kiếp sống vừa qua một cách trung thực. Vì bản ngã đã tiêu tan hết, không còn thành kiến hay tham sân si, nên đây là một sự quán sát trung thực và chính xác nhất. Tuy nói là quan sát nhưng đây chỉ là một lối nói có tính cách tương đối vì theo các danh sư Tây Tạng, đây chỉ là một sự sắp xếp của định luật nhân quả, chuẩn bị các “nhân” cho kiếp sống tương lai. Giai đoạn thứ hai của sự sắp xếp này đã được người Tây Tạng sử dụng các hình ảnh, biểu tượng để diễn tả sự biến hiện của tâm thức từ trạng thái “Vô phân biệt” đến trạng thái “Phân biệt” hay từ “Bất nhị” chuyển qua “Nhị nguyên”. Theo cuốn Tử Thư giai đoạn này kéo dài khoảng bảy ngày như sau:
Vào ngày đầu, có các tia sáng xoay vần, bầu trời hiện ra màu xanh dương và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Toàn thân Phật phát ra hào quang màu trắng chói sáng và gần đó có các hình ảnh của chư thiên với luồng ánh sáng mờ đục hơn cũng đồng thời xuất hiện. Vì các nghiệp lực của sân hận vẫn còn chất chứa trong tàng thức nên người ta thường không dám nhìn thẳng vào luồng ánh sáng xuất phát từ đứt Tỳ Lô Giá Na mà có ý hướng chuyển qua luồng ánh sáng của các chư thiên. Sân hận được giải thích như một hình thức tự vệ của bản ngã, nó không dám để cho “mình” tiêu dung vào luồng ánh sáng chói lọi kia mà quay đầu tìm qua lối khác, thoải mái hơn, dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của sự thành lập hạt giống của bản ngã và cũng là động lực để vòng luân hồi tiếp tục chuyển động, thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới của chư thiên.
Vào ngày thứ hai có các tia sáng của thủy đại màu dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới A Tu La.
Vào ngày thứ sáu, có một cầu vồng năm sắc xuất hiện. Trong mỗi màu sắc lại có thế giới của một vị Phật đồng xuất hiện. Ngoài ra còn có các vị kim cương hổ pháp và bốn mươi hai đấng thiên thể xuất hiện quanh đó như sẵn sàng tiếp dẫn người ta bước vào những thế giới tốt lành trang nghiêm thanh tịnh kia. Tuy nhiên các động năng của bản ngã cũng đồng thời trỗi dậy. Lòng sân hận, kêu căn, nghi kỵ, ngã mạn, tham lam khiến người ta sanh tâm sợ hãi không dám bước vào những cảnh giới ấy mà tìm cách tránh né và bỏ qua cơ hội có thể giải thoát. Ngay từ lúc đó, những luồng ánh sáng mờ đục bắt đầu chiếu sáng để hướng dẫn con người đi vào sáu nẻo luân hồi, và khởi sự từ lúc đó, những năng lực của vô minh bắt đầu tạo tác.
Vào ngày thứ bảy, sự sắp đặt của các hạt giống sinh tử đã gần như hoàn tất vào cái thế giới “Bất nhị” của tâm vô phân biệt đã chuyển thành những cặp nhị nguyên, đối đãi. Có hai cánh cửa được mở rộng trước mặt. Cánh cửa của sự hiểu biết (Trời) dẫn lên trên và cách cửa của sự không hiểu biết (Súc sinh) dẫn xuống dưới. Tuỳ theo nghiệp lực lôi cuốn mà người ta sẽ đi lên cao hay xuống thấp, hoặc bước vào ba đường lành (Trời, Người, A Tu La) hay ba đường ác (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh). Sau đó, người ta bước vào giai đoạn thứ tư của vòng luân hồi hay giai đoạn chuẩn bị để tái sinh.
Theo các danh sư Tây Tạng, tất cả các hình ảnh nói trên không phải ở bên ngoài đến mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức bên trong. Nằm sâu trong tâm thức là các năng lượng giải thoát biến hiện một cách tế nhị và phức tạp. Những năng lương này vốn vẫn hiện hữu nhưng thường tiểm ẩn vì bị vô minh che phủ, hay nói một cách khác, vì bị các động lực của bản ngã như tham lam, sân hận, kiêu căng, ngã mạn, nghi kỵ che lấp nên người ta không thể ý thức được chúng. Chính vì không ý thức được chúng nên người ta tiếp tục bị nghiệp lực lôi kéo vào trong vòng sinh tử luân hồi, nói một cách khác, công phu tu hành diệt ngã, loâi bỏ các thoái quen của Thân, Khẩu, Ý chính là một cách làm giải phóng các năng lượng giải thoát này. Một số học giả người Âu đã đặt câu hỏi: “Nếu người Tây Tạng nhìn thấy một vị Phật thì một người Âu, không cùng tôn giáo, sẽ thấy gì?” Sogyam Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đã trả lời: “Đây không phải là một kinh nghiệp hay một ảo ảnh mà là sự diễn tả bằng tỉ dụ, qua các biểu tượng về sự biến hiện mà người ta có thể giải thích bằng các hình ảnh khác nhau. Một người có đức tin vào thiên chúa có thể sẽ nhìn thấy Thương Đế, Đức Chúa, Đức Mẹ hoặc các đấng thiên thần. Vấn đề chính không phải là sự nhìn thấy gì ở chỗ ý thức rằng tất cả đều do tâm thức biến hiện. Tất cả mọi mầm mống thiện ác, tốt xấu đều ở tâm mà ra, tất cả đều do tâm đạo”.
Theo đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với một người bình thường, sự chết có thể chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Mặc dù diễn tiến của sự chết đã được giải thích rất rõ rệt từ cuốn Tử Thư nhưng không ai cũng chịu tỉnh thức để theo dõi từng giây từng phút như thế. Phần lớn con người khi trút hơi thở cuối cùng chỉ thấy mình mê man trắng trong suốt và từ phương đông, đứt Phật Kim Cang A Súc Bệ, tượng trưng cho trí tệ viên mãn, xuất hiện. Toàn thân ngài tỏa ra một thứ ánh sáng trong suốt, xuyên qua tất cả mọi vật nhưng gần đó có các hình ảnh lạ lùng, tương trưng cho cảnh giới địa ngục màu xám đục cũng đồng thời xuất hiện. Vị các nghiệp lực của si mê hay kiên chấp vẫn còn chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nhìn thẳng vào luồng ánh sáng trong suốt kia. Cái trí suy luận của bản ngã bắt đầu hành động, nó không dám đối đầu với sự thật bằng bản ngã hay ngũ uẩn vốn không có thật, mà tìm cách ẩn mình dưới lớp khói màu xám của vô minh. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới địa ngục.
Vào ngày thứ ba, có các tia sáng của địa đại màu vàng xuất phát từ phương nam. Chính giữa luồng sáng đó có đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, tay cầm viên minh châu sáng chói. Từ viên ngọc phát xuất những tia sáng màu vàng tượng trưng cho tam thiên đại thiên thế giới, oai nghi, trang nghiêm không gì sánh. Gần đó có một lớp ánh sáng màu xanh đờ đục, tượng trưng cho cảnh giới của loài người cũng đồng thời xuất hiện. Vì các nghiệp lực của kiêu căng, hãnh diện, nghi kỵ vẫn còn chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nhìn thẳng vào lớp sáng màu vàng chói lọi kia. Cái lòng hãnh diện của bản ngã sẽ hành động, nó không muốn nhìn vào sự vinh quang, lớn lao, trang nghiêm đẹp đẽ trong thế giới của đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, mà cố gắng tìm cách ẩn mình vào lớp ánh sáng màu xanh đục. Đây là giai đoạn đầu của các đông lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của loài người.
Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện. Vì các nghiệp lực của ích kỷ, tham lam, lo tích lũy tài sản vẫn còn phát chứa trong tàng thức nên đa số không dám nhìn thẳng vào lớp ánh sáng chói lọi kia. Lòng tham lam của bản ngã sẽ hành động, nó không muốn bước vào sự vinh quang, đẹp đẽ của thế giới Cực Lạc kia mà cố gắng tìm cách ẩn mình vào lớp ánh sáng màu nâu đục. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của ngạ quỷ.
Vào ngày thứ năm, có các tia sáng của phong đại màu xanh xuất phát từ phương bắc. Chính giữa luống ánh sáng có đức Phật Bất Không Thành Tựu, tay cầm một cái chày kim cương hình chữ thập xuất hiện. Chung quanh có một lớp ánh sáng màu xanh thẩm, tượng trưng cho thế giới của A Tu La cũng đồng thời xuất hiện. Vì các nghiệp lực của ganh ghét, giận tức, tị hiềm, đố kỵ, do dự không nhất quyết cón chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nhìn thẳng vào lớp ánh sáng màu xanh chói lọi kia. Các động lực của lòng hãnh diện, ganh ghét, tị hiềm, đầy do dự của bản ngã sẽ hành động. Nó không muốn thấy có một cái gì tốt đẹp hơn, vinh quang hơn, đẹp đẽ hơn nó thay vì hòa nhập vào thế giới của đức Phật Bất Không Thành Tựu, nó lại tìm ẩn mình vào lớp ánh sáng màu xanh thẫm vốn rồi thiếp đi một lúc, sau đó họ dần dần tỉnh lại và thấy mình có thể chứng kiến tất cả mọi sự đã xảy ra trong cuộc đời (hồi quang phản chiếu). Vì khi đó bản ngã đã tan rã nên họ có thể chứng kiến rõ ràng mọi sự xảy ra đúng với sự thật chứ không còn bị các thành kiến chi phối nữa. Khi quan sát các diễn tiến này, họ sẽ ý thức được luật nhân quả đã hành động như thế nào, vì lý do gì mà sự kiện đã diễn ra như thế, và từ đó tâm trạng của họ nảy sinh những mong cầu, ao ước vốn là những hạt giống (nhân) để chuẩn bị cho sự tái sinh sau này. Sự thu xếp này hết sức phức tạp vì còn tùy theo những duyên nghiệp đã gây ra từ những kiếp trước. Chính những động năng này đã quyết định sự thành lập một bản ngã cho kiếp sống trong tương lai.
Tóm lại, chết không phải là hết vì nó là điều kiện tất yếu của một kiếp sống sắp đến. Khi các nhân duyên của kiếp này đã hội đủ, kiếp sống phải chấm dứt và sau đó có sự thu xếp, sắp đặt lại tùy theo các mong cầu, ao ước, tùy theo các duyên nghiệp đã tạo, làm nhân cho kiếp sống về sau. Đời sống kiếp trước tạo nhân cho đời sống ở kiếp sau, và kiếp sau là quả của kiếp trước, liên miên bất tận không chấm dứt, đó chính là căn bản của luật luân hồi nhân quả. Sở dĩ người ta đau khổ vì đã nhận thức sai lầm rằng sự vật vốn không thay đổi, cứ bám chặt lấy những ảo giác của vô minh, monh kéo dài đời sống để thỏa mãn dục vọng, tạo mãi những nghiệp lành dữ, và cứ thế trôi nổi trong luân hồi sinh tử.
Đối với đa số người Âu, chết là hết, là chấm dứt, là vĩnh viễn chia lìa. Sau khi cử hành tang lễ một cách long trọng, người sống cho rằng họ không thể làm gì hơn được nữa. Đây là một sự sai lầm đáng tiếc vì thiếu kiến thức và hiểu biết về thế giới bên kia. Đối với người Tây Tạng, việc chân thành cầu nguyện và hiểu biết cuốn Tử Thư để hướng dẫn người chết là một nghi thức quan trọng nhưng không phải ai cũng biết. Tuy nhiên người ta vẫn có thể làm được nhiều điều hữu ích mà không nhất thiết phải sử dụng đến cuốn Tử Thư.
Có nhiều cách giải thích về thời gian của giai đoạn từ khi chết cho đến lúc đầu thai như sau: Có người cho rằng một ngày ở bên cõi âm tương tự với bảy ngày ở cõi trần hay bảy ngày ở cõi âm tương ứng với bốn mươi chín ngày ở cõi trần. Do đó người ta phải cầu nguyện liên tiếp trong vòng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu tiên khi thần thức người chết còn đang phân vân chưa biết chọn nơi chốn nào để đi. Đây cũng là giai đoạn mà sự liên hệ với thân quyến còn nặng nên thần thức người chết vẫn quanh quẩn bên những người thân, có thể nghe được, ý thức được lòng chân thành và sự hướng dẫn để biết đường mà đi đầu thai. Nếu không được hướng dẫn cẩn thận, thần thức mê muội dễ bị nghiệp lực chi phối hay bị các động lực bất hảo dẫn dắt đầu thai vào ba đường ác. Có người lại cho rằng cõi bên này có tất cả bảy tiến trình khác nhau, mỗi tiến trình dải bảy ngày, và tiếp theo tiến trình đầu như vừa diễn tả ở trên còn có những tiến trình khác. Thay vì gặp năm vị Phật thì người chết lại gặp năm vị ma vương, năm vị thiên thể, năm đấng thần linh.v.v..Tuy nhiên, dù giải thích theo quan niệm nào, thời gian khoảng bốn mươi chín ngày luôn luôn được coi là giai đoạn quan trọng nhất. Dĩ nhiên người ta không chỉ giới hạn việc cầu nguyện trong vòng bốn mươi chín ngày thôi mà còn phải tiếp tục cầu nguyện sau đó nữa. Hòa thượng Dudjom đã viết: “Giai đoạn bốn mươi chín ngày chỉ có ý nghĩa tương trưng thôi, có người sau khi từ trần chỉ ở cõi bên này một thời gian rất ngắn rồi đầu thai ngay và có những người khác cứ quanh quẩn bên cõi này cả trăm năm, có khi cả ngàn năm vẫn chưa chọn được nơi chốn đầu thai”.
Một số họ giả người Âu cho rằng nghi thức đọc cuốn Tử Thư hướng dẫn người chết là vô lý vì người đã chết đâu để nghe được nữa. Hòa thượng Chogyam Trungpa đã giải thích: “Hiển nhiên người quá cố không thể nghe bằng thính giác được nữa, nhưng họ vẫn ý thức được bằng thần thức (consciousness). Vì đây là sự theo dõi bằng tư tưởng nên dù người ta đọc bằng tiếng Tây Tạng hay bất cứ ngôn ngữ gì, người chết vẫn có thể hiểu được. Sự truyền đạt bằng tư tưởng này đòi hỏi sự chân thành. Có thành thật thì người khác mới cảm nhận được, và có cảm thì mới có ứng, do đó các nghi lễ có tính cách nặng phần trình diễn, thiếu thành thật, làm chỉ để cho xong, thật không có một ý nghĩa tốt đẹp gì hết”. Một số người khác cho rằng khi chết, bản ngã đã tan ra hết thì đâu còn gì để nghe nữa. Hòa thượng Trungpa giải thích: “Không ai biết được người chết đang ở trong tình trạng hay giai đoạn nào. Nếu họ đang bước vào trạng thái kinh nghiệm chân tâm thì có thể họ không ý thức được bao nhiêu nhưng thông thường trạng thái này chỉ xảy ra trong một chớp mắt, sau đó các năng lượng thuộc bản ngã tan rã lại được sắp xếp theo các định luật nhân quả (thời gian ở Cõi Sáng và chuyển thần thức để đầu thai), do đó họ vẫn có thể ý thức rõ rệt những sự kiện xảy ra chung quanh được”. Dĩ nhiên việc đọc cuốn Tử Thư hay đọc kinh cầu nguyện cho người chết còn có những ảnh hưởng khác thuộc vấn đề tư tưởng, thì chắc chắn có ảnh hưởng mà sự hiểu biết giới hạn không thể nghĩ bàn.
Một trong những vấn đề được bàn cãi sôi nổi hiện nay là việc sử dụng các máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống (Life support system). Sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật này đã gây ra một tình trạng nan giải trên phương diện pháp luật, luân lý, đạo đức và gây khó khăn cho giới y sĩ cũng như thân quyến người chết. Việc sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, ở trạng thái vô tri vô giác này quả thật vô cùng đáng sợ. Liệu chúng ta có muốn cho người thân kéo dài đời sống như thế chăng? Ai có thẩm quyền kéo dài đời sống người khác bằng máy móc hay chấm dứt đời sống khi rút những máy móc này ra? Liệu một y sĩ có thể giúp bệnh nhân chấm dứt sự đau đớn thân xác bằng cách giúp cho họ tìm cái chết được không? Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và không có câu trả lời chung nên phải tùy từng trường hợp mà giải quyết. Dĩ nhiên việc sử dụng máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống cho những người có hy vọng được cứu sống, như trong trường hợp tai nạn, bệnh tật là một chuyện, nhưng việc kéo dài đời sống cho những người không còn một hy vọng gì có thể được cứu sống hoặc quá già yếu, không thể sống thêm được nữa, lại là một vấn đề khác.
Theo cuốn Tử Thư, tâm trạng con người lúc từ trần hết sức quan trọng, việc sử dụng máy móc để kéo dài thêm đời sống chắc chắn sẽ gây khó khăn cho người chết. Dù cho người đó ở trong một tình trạng hôn mê (coma) nhưng thần thức của họ vẫn ý thức được mọi sự xảy ra chung quanh. Sự cố gắng kéo dài đời sống này có thể gây cho họ một sự bực bội, khó chịu, oán hận và chắc chắn họ không thể thoải mái, tự tại khi ra đi được. Bác sĩ Kubler Ross đã viết: “Thà để cho một người thoải mái trút hơi thở cuối cùng còn hơn để cho họ khổ sở sống một cách vô nghĩa bằng các phương tiện nhân tạo”. Linh mục Thomas Merton cũng đã viết: “Sự sống không ra sống mà muốn chết cũng chẳng được vì các máy móc nhân tạo này chính là sự giam giữ con người trong ngục tù của thể xác”. Nhưng làm sao được khi đa số mọi người ngày nay đều chết trong bệnh viện hoặc nhà dưỡng lão, dưới sự kiểm soát khắt khe của các y sĩ? Mà đa số y sĩ đều được giải bảo rằng “Bổn phận của người y sĩ là cứu sống bệnh nhân bằng bất cứ phương tiện nào và bằng mọi giá”, do đó mới có thảm trạng mà bác sĩ Melvin Morse đã diễn tả: “Sự chết được ấn định bởi nhịp đập của tim, lượng oxygen trong máu, sự hoạt động của bộ óc nên khi tim ngưng đập thì người ta sử dụng điện để kích thích cho tim đập lại, khi oxygen trong máu giảm đi thì người ta sử dụng các phương pháp hô hấp nhân tạo hay các máy bơm dưỡng khí vào phổi, khi óc ngưng hoạt động thì người ta chích đủ các loại thuốc hóa học để kích thích bộ óc làm việc. Đa số bệnh nhân thường bị điện giật lung tung, toàn thân đầy những vết chích, thân thể bơm đủ tất cả các loại thuốc cho đến khi y sĩ thấy đủ và ngừng tay thì các trò này mới chấm dứt”.
Để tình trạng này xảy ra, ngày nay một số người đã phải làm di chúc rằng nếu không còn hy vọng gì cứu sống nữa thì để cho họ ra đi một cách an lành và tự nhiên. Việc làm di chúc này khá thịnh hành tại các quốc gia Tây phương và đa số những người hiểu biết đều thông báo cho bệnh viện hay y sĩ biết về tờ di chúc này khi họ phải vào bệnh viện.
Vì chết là một điều có thể xảy ra bất ngờ, không phải ai cũng có thọ mệnh lâu dài nên sự chuẩn bị khi trong nhà có người chết là một việc hết sức quan trọng. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đã khuyên: “Khi tim ngưng đập thì người đó chưa hẳn đã chết, chỉ có phần vật chất đã ngưng hoạt động hay bắt đầu tan rã mà thôi. Vì phần tâm linh cần phải mất thêm một thời gian nữa mới tan rã (khoảng từ 8 đến 36 giờ), nên điều cần thiết là không nên di động đến thân thể người chết. Điều quan trọng nhất là phải tránh sự khóc lóc, ồn ào để thần thức người chết không bị quyến luyến hay đau khổ thêm. Hãy khởi sự tụng kinh cầu nguyện một cách chân thành và tránh các tiếng động ồn ào, náo nhiệt. Dĩ nhiên người chết không thể nghe được bằng các giác quan thông thường, nhưng vì phần tinh thần còn đang hoạt động nên thần thức của họ vẫn có thể cảm nhận được những sự ồn ào, náo nhiệt này mà sinh tâm bối rối, khó chịu hay sân hận. Dĩ nhiên tang gia nào cũng có bối rối, nhưng đừng vì thế mà bám vào các thói mê tín dị đoan hay lo chọn ngày giờ tốt, lo việc tùng ma chay mà quên đi những việc khác cần làm hơn. Người ta có thể đọc cuốn Tử Thư để hướng dẫn thần thức người chết nếu được huấn luyện về phương pháp này. Người ta cũng có thể niệm hồng danh đức Phật A Di Đà để cầu cho người chết được vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Người ta cũng có thể đọc kinh cầu nguyện của các tôn giáo, điều quan trọng nhất chính là sự chí tâm chí thành chứ không phải đọc tụng như một cái máy. Nên nhớ người chết có thể đọc rõ tư tưởng người sống và chắc chắn cảm được mọi sự thiếu thành thật, nếu có. Sự cầu nguyện rất có ích vì nó có thể giúp người quá cố bình tỉnh lại và cùng cầu nguyện theo. Khi tâm thức họ nhờ đọc kinh mà được sáng suốt, được an lạc thì chắc chắn thì họ sẽ được siêu thoát vào những đường lành. Nên tránh tất cả những việc sát sinh hay sử dụng các đồ ăn như thịt cá hay rượu vì những thứ này thướng thu hút những vong linh thấp thỏi, những loài ma quỷ đói khát tìm đến. Khi thần thức người chết còn đang dao động, chưa bình tĩnh thì sự tiếp xúc này không có ích lợi gì cả. Nên tránh các hình thức ma chay to lớn, linh đình hay các thủ tục phiền phức vì các luồng tư tưởng của đám đông thường phức tạp, lộn xộn, không giúp cho người chết được bao nhiêu. Hãy yêu cầu mọi người giữ yên lặng và chú tâm cầu nguyện một cách giản dị là tốt đẹp nhất. Sau khi chôn cất, hãy tiếp tục tụng kinh khuya sớm trong vòng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu vì đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, khi các sự sắp xếp nhân quả chưa ngã ngũ rõ rệt, khi người chết còn có thể tỉnh thức để hòa nhập vào các luồng ánh sáng để siêu thoát.
Mặc dù đa số người Tây phương thường chôn cất nhưng việc thiêu xác có nhiều lợi ích nhất. Thứ nhất, để người chết không còn quyến luyến thân xác, dễ siêu thoát. Thứ hai, lửa có một tác dụng đặc biệt để chuyển hóa các năng lực còn sót lại quanh thân xác, ngăn ngừa được sự kêu gọi của các phù thủy, pháp sư lợi dụng các năng lực này vào những việc bất hảo. Việc ướp xác chính là một lối sử dụng các năng lực này để lưu giữ âm binh, hòng duy trì ảnh hưởng của tà môn.

Audio book Thiền định thực sự bình an của tâm hồn- Brahma Kumaris

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Thien-dinh-thuc-su-binh-an-cua-tam-hon-476.html

Tác giả:Brahma Kumaris

NXB: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn

Giới thiệu cuốn sách:

Bằng cách ứng dụng Thiền định trong cuộc sống thực tế, chúng ta không chỉ đạt được bình an thật sự trong tâm trí mà còn có được một thái độ sống tích cực và lành mạnh hơn.

Thiền Định Thiết Thực là cuốn sách dành cho những ai bắt đầu con đường khám phá vẻ đẹp và sức mạnh của thế giới nội tâm. Con người giờ đây càng ngày càng nhận ra rõ hơn nhu cầu phát triển sức mạnh tâm trí, bởi lúc nào chúng ta cũng phải nỗ lực tận cùng để theo kịp nhịp sống quay cuồng và phức tạp.

Người ta thường cho rằng thiền định là điều gì đó chỉ dành cho những người có nhiều thời gian, hay những người có cuộc sống “tách biệt, xa rời” khỏi “thế giới thực tại”. Sự thật không phải như vậy. Quyển sách này giới thiệu cơ bản về kỹ thuật thiền Raja Yoga – Thiền mở mắt – một phương pháp thực hành thiết thực, thích hợp cho những ai đang sống với bộn bề trách nhiệm, mối quan hệ, công việc và những thử thách hàng ngày.

Chín bài học trong cuốn sách vốn là chuỗi chín bài giảng tại học viện buổi tối ở Leeds, nước Anh. Bạn có thể một mình thực hành các hướng dẫn trong bài giảng cùng sự hỗ trợ từ đĩa CD Thiền định Thiết thực (có thể mua kèm với quyển sách này) để đạt được kết quả tốt đẹp nhất. Tuy nhiên, có lẽ sẽ tốt hơn nhiều nếu trong quá trình luyện tập, bạn tham dự một khóa thiền miễn phí tại bất kỳ một trung tâm Raja Yoga nào. Không khí ở các trung tâm Raja Yoga và trải nghiệm của những người thực hành thiền định sẽ khắc sâu thêm trải nghiệm và hiểu biết mà bạn đúc kết được từ cuốn sách này. Bằng cách ứng dụng Thiền định trong cuộc sống thực tế, chúng ta không chỉ đạt được bình an thật sự trong tâm trí mà còn có được một thái độ sống tích cực và lành mạnh hơn.

Audio book Ngọc sáng trong hoa sen- John Blofeld

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Ngoc-sang-trong-hoa-sen-443.html

Tác giả: John Blofeld

Nhà xuất bản: Hồng Đức

Giới thiệu cuốn sách:

Trong nửa thế kỷ qua, số người phương Tây thăm viếng phương Đông không phải là ít nhưng đã có mấy ai lĩnh hội được tinh hoa của phương Đông? Nếu có một thiểu số may mắn học hỏi được chút gì thì đã mấy người viết sách chia sẻ kinh nghiệm đó với chúng ta?

Ngọc sáng trong hoa sen (Tựa tiếng Anh: The Wheel of Life) là cuốn sách nói về cuộc du hành của ông tại châu Á. Xuất bản năm 1959, quyển sách được sự đón nhận nhiệt thành của độc giả với số bán kỷ lục trên một triệu bản ngay trong năm đầu tiên ra mắt. Cho đến nay, dù thời gian trôi qua, nhiều sự kiện đã thay đổi nhưng Ngọc sáng trong hoa sen vẫn là một trong những cuốn sách giá trị về phương Đông và thường được dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường đại học.

             Mời các bạn đọc những chương đầu của tác phẩm “The Wheel of Life”, được Nguyên Phong chuyển ngữ với tựa đề “Ngọc Sáng Trong Hoa Sen”. Quyển sách được thiết kế rất đẹp, hình thức trang trọng. Phần nội dung có hiệu chỉnh, sửa một số từ mà người dịch dùng rất khác biệt với cách hiểu của đa số đọc giả ngày nay.

 Thông tin về dịch giả  “Ngọc Sáng Trong Hoa Sen”:

            Dịch giả Nguyên Phong tên thật là Vũ Văn Du, sinh năm 1950 tại Hà Nội. Ông rời Việt Nam du học ở Hoa Kỳ từ năm 1968 và tốt nghiệp cao học ở hai ngành Sinh vật học và Điện toán.

Ngoài công việc chính là một kỹ sư cao cấp tại Boeing trong hơn 20 năm, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu trong vai trò nhà khoa học tại Đại học Carnergie Mellon và Đại học Seattle. Ông còn giảng dạy tại một số trường đại học quốc tế tại Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ về lĩnh vực công nghệ phần mềm.

Song song với vai trò một nhà khoa học, Nguyên Phong còn là dịch giả nổi tiếng của loạt sách về văn hóa và tâm linh phương Đông, chuyển thể từ nhiều tác phẩm của các học giả phương Tây sau quá trình tìm hiểu và khám phá các giá trị tinh thần từ phương Đông. Trong số đó, có thể kể: Hành Trình về phương Đông, Ngọc sáng trong hoa sen, Bên rặng Tuyết sơn,  Hoa sen trên tuyết, Hoa trôi trên sóng nước, Huyền thuật và đạo sĩ Tây Tạng, Trở về từ cõi sáng, Minh Triết trong đời sống, Đường mây qua xứ tuyết,…

 

 
 

Audio book Phá mê khai mộ – Lê Sỹ Minh Tùng

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-PHA-ME-KHAI-NGO–439.html

Tác giả: Lê Sỹ Minh Tùng

Giới thiệu cuốn sách:

Tây phương Tam Thánh thì có Đức Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc với hai vị thị giả là Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Còn Phật Thích Ca Tam Tông thì có Phổ Hiền Bồ Tát hầu bên trái Đức Phật và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hầu bên phải. Chúng ta cũng thấy tượng Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà, hay tay chắp lại.

Tiểu sử Đức Phật Thích Ca

Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới  và tiếp giáp với nước Tây tạng. Nguyên Ngài là Thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Phụ hoàng tên là Tịnh Phạn vương Đầu-đà-na (Sudhodana) và Mẫu Hoàng tên là Ma-Da (Maya). Họ của Ngài là Kiều-Đáp-Ma  (Gautama), được dịch là Cù-đàm và tên Ngài là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha).

          Truyện kể rằng: Một hôm vào lễ vía Tinh Tú, vua Tịnh Phạn mở tiệc vui chơi trong thành Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện xong, Hoàng Hậu Ma-Da cùng gia đình ra ngoài thành để bố thí thức ăn và quần áo cho dân nghèo. Khi trở về cung an giấc, Hoàng Hậu nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên không trung bay xuống và sau đó lấy ngà mà khai hông bên hữu của bà mà chui vào. Hoàng Hậu bèn đem điều chiêm bao này thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vừa nghe xong, nhà vua lấy làm lạ bèn cho mời các nhà tiên tri lỗi lạc đến để đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng:”Hoàng Hậu sẽ sanh ra một quý tử có tài đức song toàn”.

          Nhà vua rất vui mừng vì nghĩ rằng ngôi báu của Ngài từ đây có người truyền nối. Theo tục lệ của Ấn Độ thì Hoàng Hậu phải trở về nhà của cha mẹ là vua A Nậu Thích Ca (AnuShakya) ở nước Câu-ly (Koly) để cha mẹ chăm sóc trước khi sanh đẻ. Trên nửa đường đi về nhà cha mẹ, Hoàng Hậu cùng đoàn gia nhân tới vườn hoa Lâm tỳ ni (Lumbini) thì bình minh vừa ló dạng. Vì thấy vườn hoa tươi đẹp nên Hoàng Hậu rảo bước ngắm hoa. Trông thấy nhánh hoa “vô ưu” mới nở vừa thơm vừa đẹp và cành lá sum suê thì Hoàng Hậu bèn lại gần và với tay bên phải để hái hoa thì Thái Tử bỗng đâu từ trong hông phải của bà chun ra. Khi đó bỗng nhiên từ dưới đất mọc lên một đóa hoa sen Thất Bảo lớn như bánh xe mà đỡ cho Ngài. Thái tử vừa giáng sinh thì bước đi bảy bước có bảy đóa sen đỡ chân. Một tay Ngài chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà nói rằng:”Thiên thượng, Thiên hạ duy ngã độc tôn”, có nghĩa là trên trời, dưới thế tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có chơn ngã là Phật tánh là chơn tâm mới thật là duy nhất của ta. Đây là ngày mồng tám tháng tư âm lịch (624 năm trước Tây lịch).

Thái Tử được đặt tên làTất-Đạt-Đa (Siddhartha) và cũng theo tục lệ của Ấn Độ thì người con phải lấy họ mẹ là Thích Ca. Hoàng Hậu Ma Da tạ thế sau khi sanh Thái tử được bảy ngày.

Mặc dầu chết sớm, nhưng Hoàng Hậu rất vui mừng vì đã sanh ra được một quý nhơn và bà nghĩ rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý đó cũng như đã rửa sạch những nghiệp báo trên đời này. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho em gái của Hoàng hậu là bà Ma-ha-Bà-xà-ba (Mahaprajapati)nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn.

          Ngày đản sanh Thái tử, khắp nơi trong thành Ca-tỳ-la-vệ đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa kết trái, trên không thì chim chóc múa ca và hào quang chiếu sáng cả mười phương. Đức vua cha vui mừng khôn xiết và Ngài cho mời các vị tiên tri đến xem tướng cho Thái tử. Có vị đạo sĩ nổi tiếng tên là A Tư Đà (Asita) lúc đó đang tu trên núi Tuyết sơn, được chư Thiên mách bảo, bèn xuống núi đến cung vua để chào mừng và xem tướng cho Thái tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ A Tư Đà bỗng nhiên chấp tay vái chào với thái độ hết sức cung kính. Đạo sĩ tuy cười mà vẻ mặt thoáng buồn. Ông nói là rất vui mừng vì :“Thái Tử có 32 tướng tốt xuất hiện nên sau này sẽ thành một vị Thánh”, nhưng ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời nên không có cơ hội được trực tiếp giáo huấn bởi vị Thánh nầy để được giải thoát. Nghe xong nhà vua không được vui cho lắm vì Ngài chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế mà nhà vua muốn đổi số mệnh cho con mình nên đặt tên cho Thái tử là Tất-Đạt-Đa, theo tiếng Phạn có nghĩa là: Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ. Chức vị mà nhà vua muốn ám chỉ ở đây là ngôi vua, nhưng nhà vua đâu có ngờ rằng chức vị sau nầy của con Ngài chính là chức vị Phật.

            Khi Thái Tử lên bảy tuổi, nhà vua cho mời tất cả những vị thầy giỏi nhất trong nước để chỉ dạy cho Ngài. Thái tử làu thông các môn văn học và ngôn ngữ học. Ngài tiếp tục chuyển qua môn công kỹ nghệ học, rồi đến Y học. Sau đó Ngài còn hấp thụ cả về Luận lý học cũng như Đạo học. Riêng về Đạo học, Thái tử được dạy về 4 sách của các Thánh Vệ Đà (Veda). Đây là những sách nói về các Thánh của Bà La Môn . Kinh Phật nói rằng chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã làu thông tất cả 5 môn học và 4 sách Vệ Đà trên. Đến năm 13 tuổi, Thái tử bắt đầu học võ thuật. Nhờ có sức khỏe phi thường, Thái tử học môn gì cũng giỏi. Đặc biệt là môn bắn cung, trong một cuộc hội thi, Thái tử đã bắn một mũi tên xuyên qua 7 lớp trống đồng, trong khi những người giỏi nhất khác chỉ bắn xuyên được ba lớp trống đồng mà thôi.Chẳng bao lâu Thái tử đã trở thành một vị văn võ song toàn khó một ai sánh kip. Song song với sự phát triển về tài năng, đức độ của Ngài cũng phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương của Ngài đối với mọi người và mọi vật bao la cao cả. Nhưng có một điều lạ là từ khi sanh ra cho đến khôn lớn, Ngài chưa lần nào được dạo chơi ngoài thành cả.

Audio book Hành Trình Về Phương Đông- Blair T.Spalding

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Hanh-Trinh-Ve-Phuong-Dong-471.html

Tác giả: Blair T.Spalding

Nhà xuất bản: Thế giới

Giới thiệu cuốn sách:

Phiền não là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải hoàn cảnh…

Tác phẩm “ Life and Teaching of the Masters of the Far East » (1935) ”, hồi ký của Dr. Blair T. Spalding (1857 – 1953) Một phần của hồi ký đã được Nguyên Phong chuyển ngữ với tựa đề  “Hành Trình Về Phương Đông”

Nguyên tác có tất cả sáu quyển ghi nhận đầy đủ về cuộc hành trình gay go nhưng lý thú và tràn đầy sự huyền bí ở Ấn độ, Tây Tạng, Trung hoa và Ba tự Ba quyển đầu ghi lại những cuộc thám hiểm của phái đoàn từ Anh sang Ấn, sự gặp gỡ giữa phái đoàn và những vị thầy tâm linh sống ở Á châu, và ở dãy Hy Mã Lạp Sơn . Ba quyển sau là những ghi nhận riêng của giáo sư Spalding về các cuộc hành trình. Sự trao đổi kiến thức giữa phái đoàn và các vị thầy tâm linh, với bản tường trình của phái đoàn đã đưa đến những cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối cùng thì ba người trong phái đoàn đã trở lại Ấn độ sống đời ẩn sĩ . Hồi ký của giáo sư Spalding là một công trình nghiên cứu nghiêm túc với nhiều dự kiện được phái đoàn ghi nhận đầy đủ một cách khoa học, và cho đến nay vẫn còn nhiều đọc giả hâm mộ, nhiệt liệt tán thưởng các quyển hồi ký này.

Mời các bạn đọc những chương đầu của tác phẩm “Hành Trình Về Phương Đông”.

Audio book Giải thoát tức thì – Nhi Bất Nhược

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-GIAI-THOAT-TUC-THI-469.html

Tác giả: Nhi Bất Nhược

Giới thiệu cuốn sách:

Muốn thấy ĐẠO thì phải hành ĐẠO. Nói về ĐẠO không phải là ĐẠO, viết về ĐẠO cũng không phải là ĐẠO. ĐẠO phải thân chứng.

 LỜI NÓI ĐẦU

     Trừ những bậc đại giác với trí huệ siêu phàm, sáng suốt tuyệt đích, mới có cái biết bao la, cùng khắp, không gì không biết, một loại kiến thức tự có, một loại kiến thức mà ngôn ngữ hiện đại gọi là kiến thức đơn phương, đơn cực, còn tất cả chúng ta thì chỉ có những kiến thức duyên sanh, vay mượn, nghĩa là chúng ta phải học tập, phải nghiên cứu tài liệu, sách vở, phải có người chỉ vẽ, giải thích, mới hiểu biết được điều này, điều nọ. Tôi cũng vậy, viết cuốn sách này, tôi chỉ nhờ góp nhặt những kiến thức mà tôi đã vay mượn từ kinh sách Phật Giáo; từ những tác phẩm của Ngài J Krishnamurti; từ các tài liệu lưu truyền của các tư tưởng gia vĩ đại Đông Phương như Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử; từ các buổi thuyết pháp của các vị tu sĩ hay các vị học giả Phật Giáo; từ những buổi hỏi ĐẠO với các thiền sư và từ các buổi thảo luận về ĐẠO với các thiện tri thức. Chẳng có công lập đức, lập ngôn như các bậc vĩ nhân siêu đẳng, tôi chỉ có một chút công lao, nếu muốn gọi thế, là cố gắng sắp xếp, hệ thống hoá, chi tiết hoá và phụ diễn những kiến thức đã thu thập, đã tom góp ấy, bằng một ngôn ngữ phổ thông, hầu đưa một vấn đề vốn vô cùng uyên bác chỉ dành riêng cho những ai có trình độ cao, có căn cơ lớn, xuống thành bình dân, dễ hiểu mà ở trình độ nào, hễ muốn, người ta cũng có thể lãnh hội, tiếp thu dễ dàng.

Nhưng giản dị hoá một vấn đề vốn phức tạp quá mức không phải chuyện đơn giản mà ai cũng có thể làm được. Nó đòi hỏi một sự hiểu biết vấn đề đến sâu sắc và một nghệ thuật diễn tả cao độ, nên tôi chẳng biết có đạt được phần nào mục tiêu theo đuổi ấy hay không. Nếu không, hay có mà chẳng bao nhiêu, thì rốt lại chỉ còn một tấm lòng muốn đóng góp một vài ý kiến, muốn chia sẻ một vài kinh nghiệm với các bạn gần xa đang băn khoăn tìm đường giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi. Cũng vì vậy, sau một thời gian đắn đo, tôi đã mạnh dạn viết cuốn sách này trong tinh thần bắt chước hoa, chim.

Hoa hễ nở là phô bày toàn bộ hương sắc, không dấu, không bớt, hồn nhiên mà nở. Người đời ai muốn thưởng thức thì cứ việc, thưởng thức ít hay nhiều cũng tùy. Thưởng thức rồi thì khen chê cũng mặc.

Chim cũng vậy, hễ cất giọng hót là hót với tất cả khả năng sẵn có. Ai nghe, ai không nghe, chim chẳng bận lòng. Nghe rồi có phê bình dở, hay, thì chim cũng kệ.

Tuy nhiên, tôi vẫn còn thua chim, hoa ở một điểm. Ấy là tôi còn theo đuổi một mục tiêu, trong lúc chim, hoa thì tuyệt đối không. Hoa khai, chim hót chẳng phải vì ai, hay vì một cái gì, hoàn toàn tự nhiên như nước chẩy, mây bay.

Dù mục tiêu tôi theo đuổi không phải là lợi danh, thì cũng là một sự góp tiếng, góp lời. Nhưng đã sống trong xã hội, thì con người, ngoài nợ cơm áo, nhà cửa, thuốc men, v.v… còn nợ tư tưởng, tinh thần. Vậy thì góp tiếng, góp lời âu cũng là một sự trả bớt món nợ này. Vì thế nên biết mình chẳng có văn tài, tôi cũng cứ viết, viết với những lời lẽ quê kệch, nôm na. Kính mong quí vị độc giả khi đã “đạt ý hãy quên lời”.

Nhưng điều mà tôi muốn truyền đạt đến quí vị đọc giả là gì?

– Xin thưa đó là vấn đề giải thoát, giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Vấn đề giải thoát này trước hết là Đức Phật, kế đến là các vị tổ và mới đây là ngài J. Krishnamurti đã chỉ dạy. Đức Phật thuyết giảng bốn mươi lăm năm, Ngài J. Krishnamurti trên dưới sáu mươi năm. Những lời lẽ từ hai vị thầy vĩ đại của nhân loại này, cũng như từ các vị tổ, lời nào mà chẳng có vị giải thoát. Tôi chỉ thu ngắn, rút gọn, nhấn mạnh đến những điểm trọng yếu để quí vị độc giả đỡ mất thì giờ thế thôi.

Bản thân tôi đã mất nhiều thì giờ tìm hiểu vấn đề này. Nay tôi muốn quí vị không phải qua một quá trình dài dòng nào mà cũng nắm được yếu chỉ của ĐẠO giải thoát và khi đã nắm được rồi thì tùy quí vị, ai đi nấy đến, ai ăn nấy no. Đúng vậy, muốn thấy ĐẠO thì phải hành ĐẠO. Nói về ĐẠO không phải là ĐẠO, viết về ĐẠO cũng không phải là ĐẠO. ĐẠO phải thân chứng.

Cá nhân tôi sau khi đã trải qua nào là những đổi thay biến “mây ra chó”, làm “trúc hoá ròng”, nào là những “cuộc thành bại hầu cằn mái tóc”, nào là những “lớp cùng thông như đốt buồng gan” mới liễu ngộ được Đệ Nhất Đế trong Tứ Diệu Đế, tức Khổ Đế, rồi từ đó mới băn khoăn, mới khắc khoải tìm đường giải thoát. Nghe nói ĐẠO PHẬT là ĐẠO GIẢI THOÁT, nên tôi đã tìm đến. Nhưng khốn nỗi, Phật Giáo kinh sách như rừng với các từ ngữ Hán tự vô cùng khó hiểu. Chỉ tìm hiểu nội dung các từ ngữ này, và làm quen với chúng đã là chuyện đòi hỏi rất nhiều thì giờ, mà không vậy thì làm sao nắm được tinh thần câu kinh, bài kệ. Tuy thế, tôi vẫn cố gắng, gặp gì học nấy, hiểu được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Thầy nào cũng tìm gặp. Buổi thuyết pháp nào biết được, dù gần hay xa, cũng tìm đến dự nghe. Lại còn siêng thăm viếng các nhà nghiên cứu Phật Giáo để có dịp đàm đạo, thảo luận hầu học hỏi các vị tiền bối. Rảnh là lên chùa lễ Phật. Cũng ăn chay (định kỳ), cũng ngồi thiền, v.v… Đúng là tâm trạng một kẻ đang chết đuối (trong bể khổ) muốn tìm bám đến cả một cọng rơm.

Nhưng dù có làm thế đi nữa mà giải thoát vẫn chẳng thấy đâu, và xem ra như có phần lại vướng mắc vào chính những việc đang làm đế mưu cầu giải thoát ấy.

Sau cùng tôi đọc J. Krishnamurti. Ngài J. Krishnamurti đã khẳng định là Ngài không hề đọc bất cứ tác giả nào, kể cả kinh sách Phật Giáo. Ấy vậy mà Ngài đã nói lên những điều mà đức Phật đã thuyết giảng hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước. Đúng là “Great minds think alike”! Ngài J. Krishnamurti nói ĐẠO bằng ngôn ngữ hiện đại tương đối dễ hiểu. Nhờ đọc J. Krishnamurti tôi mới hiểu Phật và nhờ đọc Phật tôi hiểu được J. Krỉshnamurti rõ ràng hơn.

Nắm được lý đạo rồi đem thực hành thì thấy có hiệu quả giãi thoát, hiệu quả tức thì, ngay tại cõi đời này, với xác thân này. Vì vậy tôi mới nẩy ra ý định viết cuốn sách này gởi đến quý vị độc giả kinh nghiệm quý báu ấy với niềm chân thành và trân trọng đặc biệt.

Sách tuy gồm một số bài, nhưng chủ ý lại chỉ có một, coi như định đề cho cả cuốn sách. Chủ ý được nhắc đi, nhắc lại trong tất cả các bài viết, một sự nhắc lại cố ý để:

1- Làm nổi lên tầm quan trọng chìa khóa của vấn đề.

2- Giúp cho những độc giả, nếu không có thời giờ đọc cả cuốn sách, chỉ cần đọc một bài, bất cứ bài nào, cũng xong.

Đọc những bài viết, trong cuốn sách này, rất có thể quý vị độc giả, trên bình diện trí năng, tư tưởng, sẽ có những nhận định, những ý kiến khác biệt, nhưng xin quý vị đừng vội phản đối hay tán thành. Chúng tôi không e ngại và cũng không ước mong những thái độ như thế, chỉ vì ĐẠO, thưa quý vị, phải là kết quả của hành trì, chiêm nghiệm, thân chứng, chứ không phải là tranh cãi, đàm luận hay bút chiến. Tranh cãi, đàm luận hay bút chiến chỉ làm mất thì giờ vô ích.

Tuy nhiên, nói thế cũng không phải chúng tôi không hoan hỷ đón nhận những sai lầm, thiếu sót nếu có, cần được sửa chữa, bổ túc do các vị cao minh chỉ giáo.

Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn thày Minh Thiện, thầy Duy Lực, thầy Viên Minh, giáo sư Cao Hữu Đính, bác sĩ Trương Khuê Quan và anh Sáu Có đã ban cho chúng tôi những hướng dẫn quý báu trên bước đường vào ĐẠO.

Chúng tôi xin cám ơn anh Lê Khắc Huê đã bỏ thì giờ duyệt lãm bản thảo và cho nhiều ý kiến sửa đổi cần thiết.

Chúng tôi xin cám ơn anh Bùi Hy Trọng, anh Tạ Văn Thịnh và tiện nội về những khuyến khích quý báu trong suốt thời gian biên soạn.

Chúng tôi cũng xin cám ơn anh Nguyễn Văn Quýnh, một bậc thức giả, một nhà thâm cứu Nho, Y về những đóng góp quý báu trong lần tái bản sách này.

Sau hết chúng tôi xin cám ơn họa sỹ Nguyễn Chí Hùng, người chiến hữu vô cùng quý mến của tôi trong QLVNCH trước đây, đã bỏ thời giờ và công sức trình bày giúp bìa sách, một sự cống hiến không những có mỹ thuật mà còn tràn đầy ý nghĩa. Người họa sỹ tài hoa và giàu tâm đạo này, với sự minh họa Hữu Dư Niết Bàn ngoài bìa đã thâu tóm được toàn bộ những gì cuốn sách chứa đựng bên trong.

 Nhi Bất Nhược

Audio book Suối Nguồn Tâm Linh- Thiền sư AJAHN CHAH

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Suoi-Nguon-Tam-Linh-445.html

Tác giả: Thiền sư AJAHN CHAH

Nhà xuất bản: Lao động

Giới thiệu cuốn sách:

Nhiều khi mình muốn bắt cái tâm phải yên lặng, và chính sự cố gắng đó lại làm cho tâm rối loạn thêm. Chúng ta cần tập để buông xả tất cả lòng ham muốn, dù là ham muốn giác ngộ. Có như vậy chúng ta mới được giải thoát.

Suối Nguồn Tâm Linh

Bước vào cuộc sống là từng ngày ta buông thả Tâm và Trí mình trôi theo dòng “nhân duyên, sinh khởi” để sau đó rước lấy sợ hãi, bám víu cái giả hư và quan niệm càng sai lầm về tự ngã.
Ajahm Chah, bậc minh triết nổi tiếng Á Đông, đã nhấn mạnh “giáo pháp tự nó phát khởi phù hợp với nhu cầu tức thời, nó phải sống trong hiện tại  mới đúng là chánh Pháp”. Từ quan niệm đó, nội dung những bài thuyết pháp của Ngài nhắc nhở và giúp Thính chúng phải sẵn sàng nhìn vào Tâm của mình, hãy cố gắng “bơi ngược dòng trôi” (tu hành) để tìm về “SUỐI NGUỒN TÂM LINH” luôn róc rách lời kinh tiếng kệ, mãi toả ngát hương thơm sẽ dần xả bỏ được những ràng buộc của trần thế.
Đạt đến cảnh giới ấy, bạn sẽ sống trong giáo Pháp, chạm được ranh giới của “Sự giải thoát, trải rộng cái tâm thanh tịnh để hoà vào niềm an lạc, thênh thang vạn nẻo suối nguồn”.

Mục Lục:

Lời tựa
Lời giới thiệu
Chương 1: vấn đề của tâm
Chương 2: Những điều cơ bản

Phần I: Giới luật

Chương 3: Sống trong đạo pháp
Chương 4: Tâm thiện lành
Chương 5: Lục căn: Cội nguồn của trí tuệ
Chương 6: Hiểu luật
Chương 7: Duy trì những tiêu chuẩn tu hành
Chương 9: Tại sao chúng ta ở đây
Chương 10: Cơn lũ dục vọng
Chương 11: Hai mặt của thực tại

Phần II: Thiền định

Chương 12: Món quà chánh pháp
Chương 13: Sự quân bình nội tâm
Chương 14: Sự hài hoà trong đạo
Chương 15: Điều phục tâm
Chương 16: Nhận biết tâm
Chương 17: Chìa khoá của sự giải thoát
Chương 18: Thiền định
Chương 19: Pháp chiến
Chương 20: Cứ làm đi
Chương 21: Tu hành đúng tu hành kiên định
 Chương 22: Chánh định tu hành với sự xả bỏ
Chương 23: Trong màn đêm dày đặc

Phần III: Trí huệ

Chương 24: Quán chiếu là gì?
Chương 25: Pháp tánh
Chương 26: Sống với rắn hổ mang
Chương 27: Trung đạo
Chương 28: Sự bình an xuất thế gian
Chương 29: Quy ứơc và giải thoát
Chương 30: Không có điểm tựa
Chương 31: Chánh kiếm – Một nơi mát mẻ
Chương 32: Căn nhà thật của chúng ta
Chương 33: Tứ Diệu Đế
Chương 34: Kinh điển rỗng tuếch
Chương 35: Dòng nứơc tĩnh lặng
Chương 36: Sự siêu việt
Chương 37: Vô duyên khởi
Chương 38: Lời bạt

Audio book Thanh Tịnh Tâm- Lê Sỹ Minh Tùng

ẢnhLink nghe audio+ book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Thanh-Tinh-Tam-441.html

Tác giả: Lê Sỹ Minh Tùng

Giới thiệu cuốn sách:

 

NXB: Khác
 
Tâm thanh tịnh có nghĩa là người có tâm hồn trong sáng, cuộc sống của họ không chạy theo bản ngã và nội tâm không bị kích động bởi tham lam, giận hờn và si mê.
Con người càng được kính trọng càng được  khen ngợi thì bản ngã càng có cơ hội phát triển nhiều. Mà chạy theo bản ngã là chạy theo sinh tử luân hồi.

Khi từ bi và trí tuệ được phát triển trọn vẹn thì con người sẽ không còn phân biệt nữa vì bắt đầu từ thời điểm ấy từ bi là trí tuệ mà trí tuệ cũng là từ bi và họ sẽ thấy rõ ràng tất cả bản thể Chân Như của vạn pháp. Hình tướng bề ngoài tuy khác nhau nhưng Thể Tánh bên trong chỉ là một. Đó chính là :”Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” vậy.

Điều qua trọng nhất con người cần phải biết là tất cả mọi chúng sinh đều có khả năng thành Phật vì ai ai cũng đều có sẵn Phật tính trong mình, chỉ vì mê lầm không thấy rõ tính chất cao quý thiêng liêng nơi mình mà chúng sinh mới bị mê đắm vào vòng đau khổ luân hồi.

Nguyên nhân của tất cả sự khổ đau bắt đầu từ bản ngã vì nó vốn có khuynh hướng phân biệt thân sơ, tốt xấu, giàu nghèo, ta và người…và từ đó nẩy sinh các tham vọng, ái dục, đố kỵ, tranh chấp đẩy con người lún sâu vào vòng sinh tử khổ đau.

Con người nên quay vào bên trong để lắng nghe tiếng gọi của Chân Tâm mà sống với tự tánh thanh tịnh thì không bị lôi cuốn của thế gian. Một người chết đuối không thể cứu một người khác cũng đang chết đuối. Một việc làm cao đẹp chỉ có nghĩa khi nó được làm bởi một cái tâm vị tha chân thật.

Làm sao biết rằng việc làm của mình là hoàn toàn vô vị lợi?  Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.

Con người đều là những giọt nước trong đại dương của sự sống, tuy là một thành phần nhỏ bé nhưng chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm được toàn thể sự sống của đại dương. Chúng ta có thể mang những thể xác khác nhau, trải qua nhiều kiếp sống khác nhau và thâu nhập học hỏi những kinh nghiệm khác nhau nhưng chúng ta đều là thành phần của một sự sống vĩ đại, của một Chân Như Đại Thể.

Khi lòng từ bi phát triển trọn vẹn, con người không còn ao ước sự giải thoát cho chính mình vì họ thấy mình và chúng sinh là một không hề khác nhau và khi chúng sinh còn vướng mắc trong vòng đau khổ thì làm sao mình có thể giải thoát được?

Audio book Bước đầu học phật – Thiền sư Thích Thanh Từ

ẢnhLink nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-BUOC-DAU-HOC-PHAT-437.html

Tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ

Giới thiệu cuốn sách:

Tam độc là cội nguồn đau khổ của chúng sanh, trừ diệt được nó chúng sanh sẽ hưởng một đời an vui hạnh phúc. Khổ vui vốn do chứa chấp tam độc hay tống khứ chúng đi, đây là căn bản của sự tu hành. Ba thứ độc này, si là chủ chốt. Diệt được si thì hai thứ kia tự hoại. Nhắm thẳng vào gốc mà đốn thì thân và cành đồng thời ngã theo. Vì thế, trong mười hai nhân duyên cái đầu là vô minh, muốn cắt đứt vòng xúc xích luân hồi của nhân duyên, chỉ nhắm thẳng vô minh, vô minh diệt thì hành diệt v.v… Si độc là động cơ chính yếu của tam độc, chận đứng được si thì toàn thể tam độc đều dừng. Ðức Phật thấy được cội gốc của đau khổ và đầu nguồn của thoát khổ, nên Ngài dạy Phật tử cứ ngay cái gốc ấy mà trừ, người ứng dụng đúng như thế sẽ ít tốn công mà kết quả viên mãn.

LỜI ĐẦU SÁCH

Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. Người học Phật khi mới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng có một căn bản vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáo một cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chánh.

Vì muốn chỉ lẽ chánh tà để người mới vào đạo khỏi lầm lẫn, nên chúng tôi mạnh dạn chỉ thẳng những điều sai lầm hiện có trong Phật giáo. Làm như thế, không có nghĩa chúng tôi muốn vạch lưng chỉ thẹo cho kẻ khác thấy, mà cốt yếu muốn gầy dựng lại một nếp sống Phật giáo phù hợp với hiện tại và mai sau. Chúng ta sống trong thời khoa học, cần phải truyền bá Phật giáo thích ứng với chân lý gần với sự thật. Bản chất của Phật giáo đã là chân lý, là sự thật, chúng ta đừng làm méo mó khiến kẻ bàng quan hiểu lầm Phật giáo. Với nhiệt tình, chúng tôi một bề đả phá những mê tín đang ẩn náu trong Phật giáo, để cho bộ mặt Phật giáo trắng sạch hơn, không còn những thứ lọ nhơ làm lem luốc. Tinh thần tồi tà phụ chánh, chúng tôi chịu trách nhiệm những gì chúng tôi đã nói và hoàn toàn chịu trách nhiệm với những ai không hài lòng phiền trách chúng tôi.
Kính ghi
Thích Thanh Từ

ĐÔI LỜI CHIA SẺ

cùng quý đạo hữu của người đọc
Thùy Thu

Kính thưa quý đạo hữu,

Thật là một duyên phước lớn ở cõi đời này cho những ai được học và thực hành Phật Pháp trong khi mình còn sống, còn khoẻ mạnh, trí óc còn minh mẫn. Duyên lớn nhất là học được từ vị thầy, mà ngài là một vị chân tu, tha thiết, nhiệt tâm, tận tụy, chỉ lối dẫn đường cho những ai sẵn sàng lắng nghe ngài.

Tôi được sinh trưởng trong một gia đình thuần túy Công Giáo từ nhiều thế hệ. Lớn lên và lập gia đình. Người bạn đời của tôi được sinh trưởng trong một gia đình ảnh hưởng nhẹ của Tam  Giáo (Phật, Lão, Khổng). Khi lập gia đình với tôi, anh đã qua những nghi thức để gia nhập Công Giáo. Sau 19 năm chung sống, với những bận rộn của cuộc sống, bương chải để nuôi các con ăn học, nên không có thì giờ nhiều cho riêng mình. Rồi các con lớn thêm, chúng tôi bớt bận rộn hơn, năm 2000, anh bắt đầu đọc nhiều sách về Phật Pháp, về Thiền Tông. Trong bữa ăn, anh hay giảng thuyết về Công Án “Vô”, và những thứ khác về Phật Pháp nữa, tôi chẳng để ý gì cả. Lúc nào anh cũng “Không, Không”, khó  chịu quá , cứ tra tấn hai cái tai tôi mãi, tôi cứ phải chịu đựng nghe, nhưng chỉ ở ngoài tai, chỉ muốn ăn cho mau, rồi chạy đi chỗ khác để khỏi nghe. Tôi nói với anh, tôi duy chỉ interested lời giải thích “Thân này được kết hợp bởi Đất Nước Gió Lửa” thôi. Nghe có vẻ hay hay, còn đạo nào mà chẳng thế, đều dạy con người làm lành tránh dữ thôi. Thôi, đừng nói nữa, please.

Tháng 4, năm 2006, anh đã mang về một quyển sách, loại Sách Biếu Không Bán, nhan đề “Bước Đầu Học Phật” do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn. Anh để trên bàn trong bếp, anh cũng chưa đọc. Vào thời gian đó, buổi tối, tôi có thói quen là phải đọc, đọc gì cũng được, để mắt mỏi, dễ ngủ. Vì trong ngày, làm việc full time, lại chăm sóc gia đình, mệt mỏi, nên thông thường chỉ cần đọc không quá nửa trang là buông sách ngủ rồi. Tối đó, trước khi đi ngủ, thấy cuốn sách còn trên bàn ăn, anh thì đã đi ngủ rồi, nghĩ bụng, tựa đề cũng hay hay, liếc sơ qua vài trang, lời văn có vẻ chân thành, rõ ràng. Thôi thì cứ mang lên phòng đọc chút để đi ngủ. Lần này, không phải đọc ½ trang, mà đọc hết gần nửa cuốn, mới đi ngủ. Tối hôm sau thì đọc xong. Kể từ đó, tôi bắt đầu học Phật, tôi đã thỉnh nhiều CD và DVD của vị thầy mà tôi đã có phước duyên được theo học ngay từ bước đầu tiên tìm học về Phật pháp.

Tôi chưa một lần gặp thầy ngoại trừ trong giấc mơ. Có hai giấc mơ được diện kiến thầy và rất có ý nghĩa. Tôi xin được chia sẻ với quý đạo hữu:

Đêm ngày 6/1/2007

Trong một phòng họp nhỏ, đủ để một cái bàn và khoảng 8 cái ghế,  có khoảng 6 hay 7 người, đồ ăn đã được đưa vào, sẵn sàng cho buổi ăn trưa. Trong khi chúng tôi ăn, Thầy vẫn say sưa giảng. Thầy đứng  trên bục với tấm bảng đen. Thầy đang vẽ những lối nhập vào trạng thái Niết Bàn. Tôi đã giơ tay và hỏi Thầy:

– Thưa Thầy, khi đạt tới trí tuệ tối thượng, mình sẽ thấy hoặc cảm nhận gì?

Thầy không trả lời và cũng chẳng nhìn xuống, cứ tiếp tục thuyết giảng. Tôi hỏi Thầy lại lần nữa, rồi lại lần nữa. Thầy vẫn tiếp tục giảng.

Một đệ tử nam mời Thầy nghỉ giảng để dùng bữa. Thầy không màng, vẫn tiếp tục giảng. Sợ thày đói, người đệ tử nam đó đã lấy muỗng xúc đồ ăn, đứng lên đút cho Thầy. Trong cái muỗng đó, rõ ràng là một miếng cá. Thầy nhai và nuốt một cách rất hồn nhiên, và tiếp tục giảng.

Khi thức giấc, sợ quên, tôi vội vàng ghi lại giấc mơ. Ngồi suy tư, tôi chợt nhận ra 3 điều tôi đã học được từ giấc mơ này, tôi xin được chia sẻ cùng quý đạo hữu:

1/ Khi không còn lệ thuộc vào thân tứ đại giả hợp này, nói một cách khác, khi sống được với giác tánh, no đói không còn là cái gì phải bận tâm nữa. Tâm đại từ bi rộng mở, say sưa chỉ lối dẫn đường cho chúng sinh thoát ra khỏi sinh tử luân hồi.

2/ Thầy đã không trả lời câu hỏi, mặc dù đã được hỏi 3 lần, vì “Tự tu tự chứng”. Nước nóng bao nhiêu, lạnh bao nhiêu, thì chỉ có người uống mới cảm nhận được. Vì thế,  không có câu trả lời và cũng không thể trả lời được.

3/ Thực phẩm chỉ dùng để nuôi thân. Một khi 6 căn không còn chạy theo 6 trần (trong trường hợp này là vị giác), thì đồ ăn người cho ăn đều như nhau. Ngày xưa, khi Đức Phật đi khất thực, ngài cũng ăn những gì người ta bỏ vào bát của ngài, vì tâm của ngài là tâm vô phân biệt.

Đêm ngày 8/10/2010

Tôi bước vào một phòng lớn trong thiền viện của Thầy để nghe Thầy thuyết pháp. Khi Thày nhìn thấy tôi, Thầy từ trên bục bước xuống. Thầy đem cái xách tay (purse) và đôi giầy bata trắng viền hồng của tôi bỏ vào cùng một đống, trong đó đã có nhiều xách tay và những đồ đạc nhỏ khác. Tôi có cảm tưởng những vật đó đã ở đó từ lâu (mà những người nghe Phật pháp mang theo lúc đi nghe giảng của Thầy trong quá khứ), rồi Thầy trở lại bục giảng và tiếp tục giảng về chữ “BUÔNG”.

Giấc mơ hôm ấy lại cho tôi một bài học nữa: Buông Bỏ.

. Cái xách tay thường đựng những giấy tờ cần thiết cho một cá nhân như IDs (driver license, badge đi làm), credit cards, checks nhà băng, tiền mặt, đồ trang sức (jewery), trang điểm (make-ups) v.v…

 . Còn đôi giầy thì sao? Cũng là một vật do duyên hợp giả tạm mà thành.

Buông cho trọn, không dính tới sắc trần, mới mong có ngày vào được nhà Như Lai.

Kính thưa quý Đạo Hữu,

Cảm nhận được sự hữu hiệu chuyển tâm của  “Bước Đầu Học Phật”, đầu năm 2012, tôi đã quyết định đọc quyển sách này vào CD.

Mặc dù sách có tựa đề “Bước  Đầu Học Phật”, nhưng thật sự bên trong, không những chỉ bước đầu, mà Thầy còn chỉ rõ cho chúng ta tới Bước Cuối Cùng, để nhập cái đích tối thượng, tối hậu của Đạo Phật. Giải Thoát ra khỏi luân hồi sanh tử.

Với sự cố gắng diễn tả và đọc rõ ràng lời Thầy dạy, tôi mong sao truyền đạt và chuyên chở được những lời giáo huấn chí tình của Thầy tới tất cả thính giả hữu duyên nghe CD này.

Từng lời, từng chữ của Thầy viết trong sách này quả thực vô giá. Mong rằng chúng ta đón nhận, lắng nghe với một tâm rộng mở (open minded), để có thể cảm nhận được và tu hành theo đúng Chánh Pháp kẻo uổng phí cả đời, hầu kịp thời thoát ra khỏi biển mê trong khi còn tại thế. Vì khi tấm thân tứ đại này nằm xuống, liệu kiếp tới có còn phước duyên gặp Chánh Pháp hay không?

Nguyện đem Công Đức này, hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, đều trọn thành Phật Đạo.

Kính ghi,

Viết vào ngày 5 tháng 3, năm 2012.